Lịch Sử Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa
The History of Republic of Vietnam National Flag
Phạm Văn Thanh
The History of Republic of Vietnam National Flag
Phạm Văn Thanh
(Đại Lễ Vinh Danh 60 Năm Cờ vàng Chính Nghĩa)
Vua Bảo Đại trao kiếm cho tân thủ khoa
Vua Bảo Đại và Quốc Kỳ Việt Nam
Quốc kỳ và hàng quân danh dự
I. Ý NIỆM VỀ QUỐC KỲ
Trước cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, đa số các quốc gia trên thế giới đều theo chế độ quân chủ hoặc là quân chủ chuyên chế do một nhà Vua nắm quyền hay quân chủ phong kiến do nhà Vua cùng nhóm quý tộc nắm quyền cai quản quốc gia và sở hữu chủ lãnh địa. Năm 1793 sau cuộc cách mạng, Quốc Ước Hội Nghị Pháp đã chọn cờ tam tài làm quốc kỳ của nước Pháp. Quốc kỳ Pháp có 3 màu: xanh tiêu biểu cho Tự Do (Liberté), trắng tiêu biểu cho Bình Đẳng (Egalité) và màu đỏ tiêu biểu cho Bác Ái (Fraternité).
Quốc kỳ tam tài của Pháp mang đầy đủ ý nghĩa tượng trưng cho những giá trị Tự Do, Bình Đẳng và Bác Ái rất phù hợp với lý tưởng chung của nhân loại nên về sau, nhiều quốc gia theo thể chế tự do, dân chủ trọng nhân quyền khác đã chấp nhận các màu sắc xanh, đỏ, trắng làm màu sắc căn bản cho quốc kỳ của mình trong đó có nước Anh, Hoa Kỳ, v.v.
II. LỊCH SỬ CÁC LÁ QUỐC KỲ TỰ DO TẠI VIỆT NAM
Từ thời quân chủ xa xưa, người Việt đã dùng cờ làm biểu tượng cho những nhân vật quan trọng như viên đại tướng, nhà Vua hoặc tiêu biểu cho một triều đại. Ví dụ, hiệu kỳ của một viên đại tướng thường dùng cờ theo màu Ngũ Hành hợp với mạng của vị tướng đó: vị tướng thuộc mạng Kim dùng cờ màu trắng, Mộc dùng màu xanh, Thủy dùng màu đen, Hỏa dùng màu đỏ và mạng Thổ dùng cờ màu vàng. Mỗi triều đại cũng tự chọn lá cờ có hình thức và màu sắc kết hợp cách riêng theo thuyết vận hành Âm Dương thế nào để tượng trưng cho sự hưng thịnh nhất của triều đại đó như triều Lý chọn cờ viền màu ngũ hành có chữ Lý ở giữa, triều Nguyễn chọn màu vàng của hoàng tộc. Cũng vậy, lá cờ biểu tượng cho vị quân vương thường có thêu hình rồng ở chính giữa, tụy nhiên dù lá cờ biểu tượng cho nhà Vua, hoặc cho một triều đại cũng chỉ tượng trưng cho hoàng gia mà thôi và thường treo tại hoàng thành hoặc chỗ nào có nhà Vua ngự đến mà không phải là lá quốc kỳ tiêu biểu tổng quát cho một quốc gia gồm cả chính quyền, lãnh thổ và nhân dân trong đó như quốc kỳ Pháp.
Trước cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, đa số các quốc gia trên thế giới đều theo chế độ quân chủ hoặc là quân chủ chuyên chế do một nhà Vua nắm quyền hay quân chủ phong kiến do nhà Vua cùng nhóm quý tộc nắm quyền cai quản quốc gia và sở hữu chủ lãnh địa. Năm 1793 sau cuộc cách mạng, Quốc Ước Hội Nghị Pháp đã chọn cờ tam tài làm quốc kỳ của nước Pháp. Quốc kỳ Pháp có 3 màu: xanh tiêu biểu cho Tự Do (Liberté), trắng tiêu biểu cho Bình Đẳng (Egalité) và màu đỏ tiêu biểu cho Bác Ái (Fraternité).
Quốc kỳ tam tài của Pháp mang đầy đủ ý nghĩa tượng trưng cho những giá trị Tự Do, Bình Đẳng và Bác Ái rất phù hợp với lý tưởng chung của nhân loại nên về sau, nhiều quốc gia theo thể chế tự do, dân chủ trọng nhân quyền khác đã chấp nhận các màu sắc xanh, đỏ, trắng làm màu sắc căn bản cho quốc kỳ của mình trong đó có nước Anh, Hoa Kỳ, v.v.
II. LỊCH SỬ CÁC LÁ QUỐC KỲ TỰ DO TẠI VIỆT NAM
Từ thời quân chủ xa xưa, người Việt đã dùng cờ làm biểu tượng cho những nhân vật quan trọng như viên đại tướng, nhà Vua hoặc tiêu biểu cho một triều đại. Ví dụ, hiệu kỳ của một viên đại tướng thường dùng cờ theo màu Ngũ Hành hợp với mạng của vị tướng đó: vị tướng thuộc mạng Kim dùng cờ màu trắng, Mộc dùng màu xanh, Thủy dùng màu đen, Hỏa dùng màu đỏ và mạng Thổ dùng cờ màu vàng. Mỗi triều đại cũng tự chọn lá cờ có hình thức và màu sắc kết hợp cách riêng theo thuyết vận hành Âm Dương thế nào để tượng trưng cho sự hưng thịnh nhất của triều đại đó như triều Lý chọn cờ viền màu ngũ hành có chữ Lý ở giữa, triều Nguyễn chọn màu vàng của hoàng tộc. Cũng vậy, lá cờ biểu tượng cho vị quân vương thường có thêu hình rồng ở chính giữa, tụy nhiên dù lá cờ biểu tượng cho nhà Vua, hoặc cho một triều đại cũng chỉ tượng trưng cho hoàng gia mà thôi và thường treo tại hoàng thành hoặc chỗ nào có nhà Vua ngự đến mà không phải là lá quốc kỳ tiêu biểu tổng quát cho một quốc gia gồm cả chính quyền, lãnh thổ và nhân dân trong đó như quốc kỳ Pháp.
Quốc kỳ triều Lý
1. Cờ Long Tinh
Sau Thế Chiến Thứ II, Hoàng Đế Bảo Đại ấn định quốc kỳ đầu tiên của nước Việt Nam gọi là cờ Long Tinh gồm nền vàng với một sọc đỏ nằm ngang bằng 1/3 chiều rộng lá cờ. Cờ Long Tinh được dùng trên toàn cõi Bắc Kỳ và Trung Kỳ do Triều Đình Huế cai quản. Trong khi đó, Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm làm nước thuộc địa nên treo cờ tam tài của mẫu quốc Pháp.
Sau Thế Chiến Thứ II, Hoàng Đế Bảo Đại ấn định quốc kỳ đầu tiên của nước Việt Nam gọi là cờ Long Tinh gồm nền vàng với một sọc đỏ nằm ngang bằng 1/3 chiều rộng lá cờ. Cờ Long Tinh được dùng trên toàn cõi Bắc Kỳ và Trung Kỳ do Triều Đình Huế cai quản. Trong khi đó, Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm làm nước thuộc địa nên treo cờ tam tài của mẫu quốc Pháp.
Cờ Long Tinh
Cờ Long Tinh có từ ngày 11 tháng 3 năm 1945 (1)
2. Cờ Quẻ Ly
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương và lên tiếng trao trả độc lập lại cho Việt Nam. Hai ngày sau, Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố Việt Nam đôc lập và giao cho học giả Trần Trọng Kim lập nội các ngày 17 tháng 4. Ngày 2 tháng 6, Chính Phủ Trần Trọng Kim chọn cờ vàng chính giữa có một quẻ Ly của Bát Quái Đồ gồm 2 vạch liền hai bên và một vạch đứt khúc ở giữa làm quốc kỳ cho toàn nước Việt Nam gọi là cờ Quẻ Ly. Tuy nhiên, Nhật hoãn trả Nam Kỳ lại cho Triều Đình Huế mãi đến ngày 14 tháng 8, năm 1945 chỉ 4 ngày trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh và 10 ngày trước khi Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị nên trên thực tế, Nam Kỳ chưa từng treo quốc kỳ Quẻ Ly.
2. Cờ Quẻ Ly
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương và lên tiếng trao trả độc lập lại cho Việt Nam. Hai ngày sau, Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố Việt Nam đôc lập và giao cho học giả Trần Trọng Kim lập nội các ngày 17 tháng 4. Ngày 2 tháng 6, Chính Phủ Trần Trọng Kim chọn cờ vàng chính giữa có một quẻ Ly của Bát Quái Đồ gồm 2 vạch liền hai bên và một vạch đứt khúc ở giữa làm quốc kỳ cho toàn nước Việt Nam gọi là cờ Quẻ Ly. Tuy nhiên, Nhật hoãn trả Nam Kỳ lại cho Triều Đình Huế mãi đến ngày 14 tháng 8, năm 1945 chỉ 4 ngày trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh và 10 ngày trước khi Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị nên trên thực tế, Nam Kỳ chưa từng treo quốc kỳ Quẻ Ly.
Cờ Quẻ Ly
3. Cờ Quẻ Càn
Sau Thế Chiến Thứ II, quân Trung Hoa sang giải giáp quân Nhật tại miền Bắc, ủng hộ các đảng phái quốc gia hòa giải với Việt Minh để lập nên Chính Phủ Liên Hiệp qua Hiệp Định Sơ Bộ ký ngày 6 tháng 3 năm 1946. Phần vì không đồng ý với tinh thần bản Hiệp Định Sơ Bộ và phần khác vì Việt Minh ra tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia, cụ Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam phải rút sang Tàu. Ngày 17 tháng 2 năm 1947, các đảng phái quốc gia họp tại Hồng Kông lập nên Mặt Trận Quốc Gia, mời Hoàng Đế Bảo Đại chấp chính trở lại. Hoàng Đế Bảo Đại sai nối vạch đứt khúc ở giữa cờ Quẻ Ly làm thành cờ Quẻ Càn, quẻ thứ nhất trong Bát Quái Đồ. Quẻ Càn tượng trưng cho Trời, nhà Vua và quyền lực, ứng với quốc gia, dân tộc và sức mạnh của dân Việt. Kể từ lúc này, trên nguyên tắc, cờ Quẻ Càn là quốc kỳ của nước Việt Nam độc lập tự do.
Sau Thế Chiến Thứ II, quân Trung Hoa sang giải giáp quân Nhật tại miền Bắc, ủng hộ các đảng phái quốc gia hòa giải với Việt Minh để lập nên Chính Phủ Liên Hiệp qua Hiệp Định Sơ Bộ ký ngày 6 tháng 3 năm 1946. Phần vì không đồng ý với tinh thần bản Hiệp Định Sơ Bộ và phần khác vì Việt Minh ra tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia, cụ Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam phải rút sang Tàu. Ngày 17 tháng 2 năm 1947, các đảng phái quốc gia họp tại Hồng Kông lập nên Mặt Trận Quốc Gia, mời Hoàng Đế Bảo Đại chấp chính trở lại. Hoàng Đế Bảo Đại sai nối vạch đứt khúc ở giữa cờ Quẻ Ly làm thành cờ Quẻ Càn, quẻ thứ nhất trong Bát Quái Đồ. Quẻ Càn tượng trưng cho Trời, nhà Vua và quyền lực, ứng với quốc gia, dân tộc và sức mạnh của dân Việt. Kể từ lúc này, trên nguyên tắc, cờ Quẻ Càn là quốc kỳ của nước Việt Nam độc lập tự do.
Cờ Quẻ Càn
(Phần II: Sơ Lược Về Lịch Sử Quốc Kỳ Việt Nam Tự Do)
4. Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Không thể thỏa hiệp được với Việt Minh, vào tháng 9 năm 1947, Pháp quay sang thương nghị chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam với Hoàng Đế Bảo Đại qua Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ký kết ngày 5 tháng 6 năm 1948. Hoàng Đế Bảo Đại chọn mẫu cờ vàng ba sọc đỏ của Họa Sĩ Lê Văn Đệ vẽ (nối dài 3 vạch đỏ của cờ Quẻ Càn) làm quốc kỳ cho quốc gia Việt Nam độc lập và giao cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân lập chính phủ lâm thời ngày 1 tháng 6 năm 1948 tại Sài Gòn. Hôm sau, Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân ký pháp lệnh ban hành quốc kỳ và quốc ca. Quốc Kỳ của nước Việt Nam nền vàng, ba sọc đỏ ở giữa. Quốc Ca là bài “Tiếng Gọi Sinh Viên” sau đổi thành “Tiếng Gọi Thanh Niên”của Lưu Hữu Phước. Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ đã chính thức là quốc kỳ của nước Việt Nam độc lập, tự do kể từ thời đó đến khi đất nước chia đôi năm 1954, nối tiếp qua các chính phủ Việt Nam Cộng Hòa miền Nam cho đến cuối tháng 4 năm 1975. Sau năm 1975, gần 3 triệu người Việt chối bỏ chế độ CS đã di tản ra hải ngoại và định cư khắp nơi trên thế giới và những cộng đồng người Việt yêu tự do này vẫn nhất quyết dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ làm biểu tượng của họ.
4. Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Không thể thỏa hiệp được với Việt Minh, vào tháng 9 năm 1947, Pháp quay sang thương nghị chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam với Hoàng Đế Bảo Đại qua Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ký kết ngày 5 tháng 6 năm 1948. Hoàng Đế Bảo Đại chọn mẫu cờ vàng ba sọc đỏ của Họa Sĩ Lê Văn Đệ vẽ (nối dài 3 vạch đỏ của cờ Quẻ Càn) làm quốc kỳ cho quốc gia Việt Nam độc lập và giao cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân lập chính phủ lâm thời ngày 1 tháng 6 năm 1948 tại Sài Gòn. Hôm sau, Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân ký pháp lệnh ban hành quốc kỳ và quốc ca. Quốc Kỳ của nước Việt Nam nền vàng, ba sọc đỏ ở giữa. Quốc Ca là bài “Tiếng Gọi Sinh Viên” sau đổi thành “Tiếng Gọi Thanh Niên”của Lưu Hữu Phước. Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ đã chính thức là quốc kỳ của nước Việt Nam độc lập, tự do kể từ thời đó đến khi đất nước chia đôi năm 1954, nối tiếp qua các chính phủ Việt Nam Cộng Hòa miền Nam cho đến cuối tháng 4 năm 1975. Sau năm 1975, gần 3 triệu người Việt chối bỏ chế độ CS đã di tản ra hải ngoại và định cư khắp nơi trên thế giới và những cộng đồng người Việt yêu tự do này vẫn nhất quyết dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ làm biểu tượng của họ.
Quốc kỳ Việt Nam độc lập từ Nam ra Bắc do Hoàng Đế Bảo Đại chọn năm 1948
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là cờ của quốc gia Việt Nam độc lập,
tự do từ Nam ra Bắc, có từ ngày 5 tháng 6 năm 1948 (2)
III. Ý NGHĨA LÁ QUỐC KỲ VÀNG BA SỌC ĐỎ
Quốc kỳ Việt Nam
1. Về Phương Diện Màu Sắc
Không những màu vàng và đỏ tượng trưng cho dân Việt da vàng máu đỏ mà màu quốc kỳ Việt Nam còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều, liên hệ đến nhân-sinh-quan cùng vũ-trụ-quan của dân Việt. Nói chung, màu vàng thuộc hành Thổ (trong ngũ hành) nằm tại trung ương, vì thế màu vàng tượng trưng cho lãnh thổ và cho uy quyền sở-hữu-chủ của lãnh thổ này. Màu đỏ thuộc hành Hỏa và nằm ở hướng Nam; do đó, màu đỏ chỉ dân tộc Việt ở phương Nam so với Trung Hoa.
2. Về Phương Diện Chính Trị
Nền vàng của lá quốc kỳ chỉ quốc gia và dân tộc Việt Nam và ba sọc đỏ tượng trưng cho ba kỳ. Quốc kỳ vàng mang hai ý nghĩa quan trọng: thứ nhất, tiêu biểu cho chế độ tự do, dân chủ tại Việt Nam; thứ hai, tiêu biểu cho một quốc gia thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, có chính quyền lãnh đạo nhân dân trong lãnh thổ đó và nhân dân gồm tất cả 3 kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Do đó, nước Việt không thể bị phân chia như thời Trịnh Nguyễn phân tranh, cắt nhượng cho bất cứ ngoại bang nào như Pháp đã chia Nam Kỳ thành một nước khác biệt với Bắc và Trung Kỳ.
3. Về Phương Diện Triết Lý
Tương tự như quan niệm về vũ trụ gồm Trời ở trên, Đất ở dưới và Người ở giữa mà tất cả hợp với nhau biến thái, chuyển dịch thành lẽ biến dịch của vạn vật trong vũ trụ, lá Quốc Kỳ Việt Nam chính thống cũng được chọn thế nào để phù hợp hài hòa với lẽ biến dịch này. Màu vàng thuộc hành Thổ, màu đỏ thuộc hành Hỏa và vận chuyển theo Ngũ Hành Tương Sinh thì Hỏa sinh Thổ nên thuận hợp với nhau. Như vậy, kết hợp hai màu vàng và đỏ làm thành quốc kỳ, chúng ta nhấn mạnh cho Trung Quốc biết rằng dân Việt ở phương Nam là một dân tộc có lãnh thổ riêng và chủ quyền hoàn toàn trên đất nước ta như ý nghĩa bài thơ Phạt Tống Lộ Bố Văn của Lý Thường Kiệt (4) và bản Bình Ngô Đại Cáo (5) mà Nguyễn Trãi đã khẳng định.
IV. KẾT LUẬN
Quốc kỳ vàng ba sọc đỏ đã từng được dùng làm biểu tượng chính thức cho một Quốc Gia Việt Nam chưa bị phân chia trước năm 1954; nên chi, quốc kỳ vàng sẽ vẫn là biểu tượng chung của những người Việt quốc gia chân chính. Quốc kỳ vàng mang linh hồn của dân tộc Việt cùng tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của dân Việt trong suốt chiều dài lịch sử thăng trầm từ thuở khai quốc đến nay. Quốc kỳ vàng đượm thắm máu đào của bao tiền nhân và anh hùng liệt sĩ đã hi sinh xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, không phân biệt người dân sống dưới thể chế chính trị Quốc Gia hay Cộng Sản, sắc tộc Kinh hay Thượng, hoặc tôn giáo, phái tính, tuổi tác nào. Vì thế, người Việt quốc gia có bổn phận phải bảo vệ và phát huy chính nghĩa quốc gia tượng trưng bởi lá quốc kỳ chính thống nền vàng ba sọc đỏ, lá cờ tiêu biểu cho tự do, công bằng và bác ái của truyền thống dân Việt.
Phạm Văn Thanh
Không những màu vàng và đỏ tượng trưng cho dân Việt da vàng máu đỏ mà màu quốc kỳ Việt Nam còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều, liên hệ đến nhân-sinh-quan cùng vũ-trụ-quan của dân Việt. Nói chung, màu vàng thuộc hành Thổ (trong ngũ hành) nằm tại trung ương, vì thế màu vàng tượng trưng cho lãnh thổ và cho uy quyền sở-hữu-chủ của lãnh thổ này. Màu đỏ thuộc hành Hỏa và nằm ở hướng Nam; do đó, màu đỏ chỉ dân tộc Việt ở phương Nam so với Trung Hoa.
2. Về Phương Diện Chính Trị
Nền vàng của lá quốc kỳ chỉ quốc gia và dân tộc Việt Nam và ba sọc đỏ tượng trưng cho ba kỳ. Quốc kỳ vàng mang hai ý nghĩa quan trọng: thứ nhất, tiêu biểu cho chế độ tự do, dân chủ tại Việt Nam; thứ hai, tiêu biểu cho một quốc gia thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, có chính quyền lãnh đạo nhân dân trong lãnh thổ đó và nhân dân gồm tất cả 3 kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Do đó, nước Việt không thể bị phân chia như thời Trịnh Nguyễn phân tranh, cắt nhượng cho bất cứ ngoại bang nào như Pháp đã chia Nam Kỳ thành một nước khác biệt với Bắc và Trung Kỳ.
3. Về Phương Diện Triết Lý
Tương tự như quan niệm về vũ trụ gồm Trời ở trên, Đất ở dưới và Người ở giữa mà tất cả hợp với nhau biến thái, chuyển dịch thành lẽ biến dịch của vạn vật trong vũ trụ, lá Quốc Kỳ Việt Nam chính thống cũng được chọn thế nào để phù hợp hài hòa với lẽ biến dịch này. Màu vàng thuộc hành Thổ, màu đỏ thuộc hành Hỏa và vận chuyển theo Ngũ Hành Tương Sinh thì Hỏa sinh Thổ nên thuận hợp với nhau. Như vậy, kết hợp hai màu vàng và đỏ làm thành quốc kỳ, chúng ta nhấn mạnh cho Trung Quốc biết rằng dân Việt ở phương Nam là một dân tộc có lãnh thổ riêng và chủ quyền hoàn toàn trên đất nước ta như ý nghĩa bài thơ Phạt Tống Lộ Bố Văn của Lý Thường Kiệt (4) và bản Bình Ngô Đại Cáo (5) mà Nguyễn Trãi đã khẳng định.
IV. KẾT LUẬN
Quốc kỳ vàng ba sọc đỏ đã từng được dùng làm biểu tượng chính thức cho một Quốc Gia Việt Nam chưa bị phân chia trước năm 1954; nên chi, quốc kỳ vàng sẽ vẫn là biểu tượng chung của những người Việt quốc gia chân chính. Quốc kỳ vàng mang linh hồn của dân tộc Việt cùng tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của dân Việt trong suốt chiều dài lịch sử thăng trầm từ thuở khai quốc đến nay. Quốc kỳ vàng đượm thắm máu đào của bao tiền nhân và anh hùng liệt sĩ đã hi sinh xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, không phân biệt người dân sống dưới thể chế chính trị Quốc Gia hay Cộng Sản, sắc tộc Kinh hay Thượng, hoặc tôn giáo, phái tính, tuổi tác nào. Vì thế, người Việt quốc gia có bổn phận phải bảo vệ và phát huy chính nghĩa quốc gia tượng trưng bởi lá quốc kỳ chính thống nền vàng ba sọc đỏ, lá cờ tiêu biểu cho tự do, công bằng và bác ái của truyền thống dân Việt.
Phạm Văn Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét