Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2012

Tất cả các tuớng lỉnh quân đội nhân dân Việt nam từng cầm quân đánh TQ đều đã bị thủ tiêu ??




GẶP NHÀ VĂN ĐÀO THẮNG, NGƯỜI LÀM 4 BỘ PHIM VỀ NHỮNG TRẬN ÁC CHIẾN NĂM 1984 Ở HÀ GIANG

-Tại Hà Giang vào cuối những năm 80:Không rõ bên nào chủ động trước nhưng 2 đơn vị lính của phía Trung Quốc và Việt Nam tại điểm chốt tiền tiêu đã thỏa thuận ngầm với nhau là thôi không bắn nhau nữa. Hai bên đã chán cảnh bắn nhau, chém giết nhau…
- Một nhịp cầu hữu nghị tình cờ được xây lên:Từ chỗ hai bên căng thẳng rình bắn nhau từng giây từng phút, lính 2 trạm chốt này đêm đêm đã bí mặt gặp nhau, giao lưu nhảy múa, hát hò và tặng thuốc lá, thuốc lào và nhu yếu phẩm cho nhau ?

nhà văn Phạm Viết Đào.

Nhà văn Phạm Viết Đào (phải ) và nhà văn Đào Thắng

P.V.Đ:Thưa anh, được biết anh là một trong số ít những nhà văn có mặt tại Hà Giang giai đoạn 1984-1985; hồi đó anh có mặt ở Hà Giang với nhiệm vụ gì vậy?

NV Đào Thắng: Hồi đó tôi tham gia đoàn làm phim tài liệu của Xưởng phim quân đội có mặt tại Hà Giang để ghi lại những ảnh của của mặt trận này. Tôi với tư cách là biên kịch, anh Nguyễn Đức Giảng là đạo diễn, anh Lê Hợi là quay phim. Chúng tôi có mặt tại Hà Giang từ tháng 4/1984…
P.V.Đ: Có nghĩa là anh có biết và quay được hình ảnh của trận đánh ác liệt xảy ra ngày 12/7/1984?

NVĐT: Chúng tôi có biết và ghi lại được một số hình ảnh. Hình ảnh đó sau này được sử dụng trong các bộ phim như: Đồng Văn tháng 5/1984, phim được Giải nhất của Bộ Quốc phóng trong năm; Thị xã yên tĩnh-Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam; Giữ đất giải của Bộ Quốc phòng; Nhịp sống mặt trận…

Tôi nhớ hồi đó khi Đoàn làm phim được điều động lên tham gia mặt trận này, có một vị Tùy viên văn hóa Liên Xô lúc đó đề nghị theo Đoàn làm phim và ông ta đã cùng chúng tôi lên tận Hà Giang để chứng kiến những gì xảy ra tại chiến tuyến này. Hồi đó có chuyên gia quân sự Liên Xô tham gia chiến tuyến này. Phiên dịch cho vị Tùy viên văn hóa này là dịch giả Thái Hà, người dịch Những người thích đùa và một thời gian phụ trách Tạp chí Văn học nước ngoài. 

Vị Tùy viên văn hóa này còn đòi theo chúng tôi lên tận chốt nhưng chúng tôi không đồng ý vì nguy hiểm; ông ta đã sửng cồ lên với chúng tôi, chán không được đi theo Đoàn làm phim, ông ta đã mượn rượu để mắng chúng tôi.Còn chúng tôi, Đoàn làm phim thì theo các chiến sĩ lên tận chốt để quay lại những hình ảnh sinh hoạt, chiến đấu của bộ đội ta, có những cảnh chúng tôi đặt máy quay chỉ cách vị trí H1 của địch có mấy chục mét…

PVĐ: Từng chứng kiến những trận đánh ác liệt chiến tuyến Thanh Thủy Hà Giang, hiện anh còn lưu giữ được những ký ức gì về những trận đánh ác liệt ở đây?

NVĐT: Cách đây 2 năm, tôi và Nhà thơ Hữu Thỉnh có đến thăm Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, ông có nhắc chúng tôi là Hội Nhà văn nên tổ chức viết về cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, nếu không viết, hậu thế sẽ không nhớ tới các sự kiện lịch sử này. Ông cho biết, phía Trung Quốc người ta đã viết và xuất bản nhiều, chính ông đã được đọc một số quyển sách do phía Trung Quốc viết theo cách nhìn nhận và đánh giá của họ.Ông đã đưa vấn đề này ra trao đổi với các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong các dịp làm việc với họ; họ đã thanh minh rằng những quyển sách này viết ra không do sự chỉ đạo của lãnh đạo trung ương; do các địa phương tự ý xuất bản…

P.V.Đ: Thế Nhà văn có ý định sẽ một lúc nào đó viết lại những điều mắt thấy tai nghe về những trận đánh ác liệt tại chiến tuyến Hà Giang ?

NVĐT: Tôi đang trăn trở điều này, trong cuốn tiểu thuyết Dòng sông mía, ( Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn ) tôi đã đưa một số chi tiết của cuộc chiến ác liệt tại Hà Giang vào trong tác phẩm của mình. Đó là chi tiết, người mẹ tắm rửa cho thi hài của đứa con là liệt sĩ Các được đưa từ mặt trận trở về, thi thể của anh đã có dòi…Đó là chi tiết hoàn toàn có thật mà chính mắt tôi đã chứng kiến tại mặt trận Hà Giang…

P.V.Đ: Anh có thể kể thêm về các chi tiết về cuộc chiến ở mặt trận này mà anh còn bị ám ảnh nhất?

NVĐT: Điều tôi ám ảnh nhất đó là hình ảnh và những kỷ niệm về Đại tá Trần Tất Thanh, vị Sư trưởng của Sư đoàn 31 bộ binh, Sư đoàn có tên là Tà Xanh; ông là người đã trực tiếp chỉ huy những trận đánh làm thay đổi cục diện chiến trường tại chiến tuyến Vị Xuyên Hà Giang…

Như anh biết, sau chiến dịch phản công đánh chiếm lại cao điểm 1509 ngày 12/7/1985 , bên ta tung ra 6 trung đoàn của các 4 sư đoàn thiện chiến, áp dụng chiến thuật biển người của Trung Quốc bị thất bại và thương vong lớn. Tướng Hoàng Đan trước khi xuất binh đã đến tận các trung đoàn úy lạo quân sĩ: Các đồng chí chuẩn bị thật nhiều giây thừng để tóm bắt thật nhiều bọn bành trướng mang về đây lĩnh thưởng ? Phải làm cho Trung Quốc biết thế nào là sức mạnh Việt Nam.

Cuộc phản công thất bại và chúng ta không những không giành lại được 1509 mà còn mất thêm một số cao điểm. Trước tình thế đó, Bộ Quốc phòng đã thay tướng, điều Tướng Nguyễn Hữu An, một chiến tướng tài danh, từng chỉ huy một trung đoàn đánh Điện Biên Phủ năm xưa lên chỉ huy mặt trận. Sư đoàn 31 là sư đoàn bộ bộ binh của Đại tá Trần Tất Thanh đang đóng quân bên Lào được điều về để nhận nhiệm vụ tại chiến trường khốc liệt này ? Đại tá Trần Tất Thanh có kể cho tôi một chi tiết cảm động: Khi Sư đoàn Tà Xanh rút khỏi Lào để bổ sung cho chiến tuyến Hà Giang, nhiều bà con Lào đã lưu luyến đi theo bộ đội Việt Nam 3 ngày để tiễn chân và bày tỏ tình cảm quý mến.

Khi Sư đoàn 31 được điều lên Hà Giang, chính BBC đã đưa tin ngay: Con hổ Tà Xanh của đại tá Trần Tất Thanh sắp lến chiến trường Vị Xuyên; hãy coi sẽ bị gãy răng ở chiến trường toàn đá này…Kết cục Con hổ Tà Xanh không bị gãy răng mà đã làm cho quân Trung Quốc liểng xiểng.


Khi Tướng Nguyễn Hữu An và Sư đoàn 31 Tà Xanh được điều động về Hà Giang đã tạo nên những thay đổi về cục diện chiến trường. Chúng ta đã đẩy lùi và chiếm lại một số cao điểm bị Trung Quốc chiếm giữ. Tôi không nhớ chi tiết các cao điểm nào nhưng Đoàn làm phim đã lên tới Cao điểm H2, H3, là cao điểm đối địch với cao điểm H1, là cao điểm bị Trung Quốc chiếm.

Tướng Nguyễn Hữu An và Sư đoàn Tà Xanh dưới quyền chỉ huy của Đại tá Trần Tất Thanh đã thay đổi cách đánh, dùng bộ đội đặc công áp dụng chiến thuật đánh công kiên của trận Điện Biên Phủ khi xưa, đánh nhỏ đánh chắc để tránh thương vong do phi pháp của địch rất mạnh gây cho ta.


Sư trưởng Trần Tất Thanh, một vị chỉ huy quả cảm và rất được lòng binh sĩ vì ông rất hiểu tâm lý binh sĩ. Việc đầu tiên của ông là bắt thay đổi toàn bộ tên gọi một số vị trí được bộ ta đặt tên trước đó tỷ như: Suối cô hồn, Cối xay thịt, Thung lũng tử thần, Cửa tử…yêu cầu bộ đội gọi tên thành những tên mới, ví như: Ngã ba kiên cường, Cao điểm anh hùng, Suối tương lai…

Khi đưa bộ đội lên, ông bố trị bộ đội thành tổ 3 người lên đào phá đá thành những hàm ếch sâu trong lòng đá để làm nơi ẩn nấp, đào xây dựng các chiến hào trên vách đá để đi lại hạn chế phi pháo địch…Đồng thời ông lệnh cho quân sĩ giữ nghiêm quân kỷ, không để bộ đội để tóc dài. Vì ở ngoài mặt trận có 2 việc lính ta rất kiêng: cắt tóc và trả lời phóng vấn báo chí, đoàn làm phim; nhiều lính sau khi cắt tóc, hay gặp báo chi hay bị tử thương…Sư trưởng Trần Tất Thanh đã buộc lính thay đổi hủ tục đó.

Bộ đội giữ chốt phải nói là vô cùng gian khổ vì phải phá đá ra để làm hầm không chỉ để trú ẩn trong đó mà cả nơi ăn nghỉ đã đành, phải chịu đựng biết bao thiếu thốn…Bộ đội nằm trong hầm đá ngủ nhiều ngày nên thường bị bệnh cứng khớp, vì ngủ trực tiếp trên sàn đá nên mất nhiệt. Trời Hà Giang mùa dông có khí xuống tới 4 độ. Nhiều bệnh binh được khiêng ra từ chốt người cứ bị co quắp không duối ra được kể cả khi khiêng tới bệnh viện. Sư trưởng đã tìm cách chuyển gỗ, ván lên để kể làm giường cho quân sĩ. Rồi thì đã lên chốt rồi, chuyện tắm rửa là một việc làm kỳ công vì trên cao làm gì có nước. Hôm đoàn làm phim lên chúng tôi đã chứng kiến một tiểu đoàn trưởng 3 tháng canh chốt được bố trí thay phiên trở về tuyến sau để được tắm. Anh biết bộ đội giữ chốt tắm như thế nào không? Lính chiến trường gọi là tắm khô, không tắm bằng nước mà tắm bằng cồn… Lấy cồn tẩm bông lau người, sĩ quan cấp tiểu đoàn phải 3 tháng mới tắm 1 lần, không biết lính thì được mấy lần.

Sư trưởng Trần Tất Thanh kể cho tôi một trận chiến đấu vô cùng oai hùng và cảm động, một trận đánh mà ông đã mất quá nhiều nước mắt. Phía Trung Quốc đã sử dụng pháo giã ác liệt vào trận địa phòng ngự của ta suốt từ 6 giờ đến 10 giờ đêm; pháo, cối của chúng cứ giã liên tục đạn nố chớp chớp liên hồi y như trong các trận đánh của các trò chơi điện tử bây giờ. Đứng tuyến sau nhìn thấy cảnh quân mình oằn lưng chịu đòn pháo địch nước mắt ông tràn trề. Thế nhưng khi pháo giặc im. chùng xua bộ binh địch lao lên đánh chiếm trận địa phòng ngự của ta thì lại súng của quân ta chớp lóe rền vang từ trong các hầm cố thủ và quân địch lại bị đẩy lui. Nhìn cảnh đó ông lại nước mắt lưng tròng vì sung sướng: vừa thương quân sĩ vừa cảm phục tinh thần ngoan cường chịu đựng bảo vệ trận địa…

Có thể nói sau trận 12/7/1984 quân ta và quân địch không tổ chức những trận đánh lớn cấp trung đoàn mà luôn giằng co nhau những trận đánh trên từng ngọn đồi điểm chốt. Chúng tôi đã vác máy quay lên tận cao điểm H2 để hướng ống kính máy quay lên cao điểm H1 là cao điểm lính Trung Quốc chiếm giữ. Bộ đội đã cản không cho chúng tôi lên vì rất nguy hiểm, chúng tôi vẫn lên vì chúng tôi cũng từng là lính chống Mỹ nên có đủ kinh nghiệm tránh đạn của địch.

Tôi còn nhớ khi Đoàn làm phim tập kết vào cái hang lớn gọi là Hang Mán, phải qua một chiếc cầu bắc bằng cây; khi qua đoạn suối này phải chạy thật nhanh, nếu chạy không nhanh thì sẽ ăn đạn cối của Trung Quốc. Thành ra khi đi quan đoạn suối này giống như trẻ con chơi trò ú tim. Chuẩn bị từng người một từ bên này nhanh chóng lao qua bên kia. Khi chúng tôi lao qua được vào trong hang thì pháo cối dồn dập nổ, chỉ chậm vài giây là coi xong. Vào đến trong hang lính mới phổ biến kinh nghiệm cho chúng tôi: Các chú nếu muốn tránh bị phi pháo địch bắn thì phải mặc áo bỏ ngoài quần và đừng mặc áo sĩ quan. Nếu lính Trung Quốc nhìn thấy mặc áo quần sĩ quan thì chúng nổ súng ngay. Còn áo để ngoài quần là quy ước ngầm hiểu đó là lính hậu cần.Khi thấy lính để áo ngoài quần thì cả ta cũng không bắn lính Trung Quốc và lính Trung Quốc cũng không bắn ta. Tóm lại đó là một sự thỏa thuận ngầm kỳ ngôi ở nơi cửa tử.

Còn lên đến điểm cao H2 thì có thể nghe rõ bước chân di chuyển của lính Trung Quốc ở điểm cao H1 bên này nghe rõ tiếng trò chuyện của phía bên kia…

P.V.Đ: Thế lên đến H2, các anh có quan sát được gì không?

NVĐT: Có một chuyện thú vị này bây giờ tôi tiết lộ với anh, chính từ điểm cao H2, này một nhịp cầu “ đình chiến “ được thiết lập, mà những nhịp cầu này lại do chính những người lính xây cất lên.

Hồi đó cả một chiến trường dài trên chục km bộ đội ta mệnh danh là Lò Vôi thế kỷ vì núi toàn đá vôi. Do pháo cối của hai bên bắn nhiều nên lửa đạn đã biến cả những giải đá xanh dài trở nên trắng xóa vì đá bị biến thành vôi. Nghĩa là hai bên cứ đánh nhau ác liệt giằng co không ai chịu thua ai đến một thời điểm thì chính người lính Trung Quốc thấy chán và vô nghĩa. Không rõ bên nào chủ động trước nhưng 2 đơn vị lính của phía Trung Quốc và Việt Nam tại điểm chốt tiền tiêu đã thỏa thuận ngầm với nhau là thôi không bắn nhau nữa. Vì như thế vô nghĩa. Phía chúng ta vì bao vệ biên cương của tổ quốc nên chấp nhận hy sinh là có ỹ nghĩa còn phía Trung Quốc người lính ngộ ra họ là công cụ vô nghĩa và độc ác của nhà cầm quyền. 

Từ chỗ hai bên căng thẳng rình bắn nhau, lính 2 trạm chốt này đêm đêm đã bí mặt gặp nhau, giao lưu nhảy múa, hát hò và tặng thuốc lá, thuốc lào và nhu yếu phẩm cho nhau. Phía quân ta tặng quân Trung Quôc thuốc lào, còn lính Trung Quốc tặng ta thuốc lá Đại Thiền Môn, bánh kẹo thậm chí cả bia rượu. Việc này phía ta đã nhanh chóng báo cáo về cho Tổng cục chính trị những diến biến bất thường của chiến trường Hà Giang. Để có bằng chứng chắc chắn, Tổng Cục chính trị đã bố trí để anh Việt, sau này về công tác ở Bảo tàng quân đội mang máy ảnh, máy ghi âm để bí mật ghi lại cảnh gặp gỡ giao lưu giữa lính ta và lính Trung Quốc trên cao điểm H 1, H 2 để mang về báo cáo với Bộ Quốc phòng. Nghe nói sau vụ này, Tướng Võ Nguyên Giáp đã sang Trung Quốc để điều đình để 2 bên thôi không đánh nhau nữa vì lãnh đạo có muốn đánh quân cũng đã chán rồi ?

Tóm lại những điều tôi đã chứng kiến tại Hà Giang còn nhiều chuyện bi tráng lắm?

P.V.Đ: Thế từ sau khi 2 nước bình thường hóa quan hệ, anh có quay lại thăm Hà Giang lần nào không ?

NVĐT: Có năm 2008, tôi có trở lại cao điểm H1, H 2 này, phía ta thì bỏ lại chiến trường xưa cỏ mọc um tùm, còn Cao điểm H1 Trung Quốc vẫn giữ, thậm chí còn gia cố chắc chắn thêm và có lính canh giữ.

P.V.Đ: Thế còn những chiến binh năm xưa, về vị Sư trưởng Trần Tất Thanh, ông ta có được phong anh hùng không ?

NVĐT: Sư trưởng Trần Tất Thanh sau được phong Trung tướng và đảm nhận trọng trách Tư lệnh Quân khu 2; đáng tiếc ông đã bị hy sinh trong một tại nạn máy thảm khốc tại Lào vào ngày 25/5/1998; cùng chịu tai nạn với ông là Đoàn tướng lĩnh cấp cao gồm 20 sĩ quan trong đó có Tổng tham mưu trưởng, Trung tướng Đào Trọng Lịch, 5 vị Đại tá cấp Cục, Vụ…Trong tại nạn này có một vị may mắn thoát nạn đó là Tư lệnh quân khu 4, ông có danh sách trong Đoàn nhưng ông ở lại không đi nên thoát. Ông này sau đó cũng lại bị tử nạn trong vụ tai nạn may bay ở Hòn Mê. 

Điều bí ẩn xót xa là: những người bị tử nạn trong đó nhiều sĩ quan từng là chiến binh chống bành trướng Trung Quốc ngoan cường, từ Tham mưu trưởng Đào Trọng Lịch, ông đang ngấp nghé vị trí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến Tướng Trần Tất Thanh ? Còn tôi là người chứng kiến những trận đánh Hà Giang thì thấy phần lớn những đơn vị tham gia những trận ác chiến đều là lính Thanh Nghệ? Chả nhẽ vì thế mà Tư lệnh Quân khu IV bị oan gia vì hăng hái mộ nhiều quân đánh Trung Quốc?

P.V.Đ. Hội Nhà văn đang tổ chức Đại hội, được biết, nhà văn Đào Thắng được rất nhiều hội viên đề cử vào Ban chấp hành; riêng chủ Blog này cũng sẽ giành 1 phiếu bỏ cho anh và mong muốn vận đông các nhà văn, nhất là những người yêu mến trang Blog này sẽ bỏ phiếu ủng hộ nhà văn Đào Thắng. Xin hỏi, nếu anh được bầu vào Ban chấp hành, anh sẽ tích cực tham gia mảng công tác nào của Hội?

NVĐT: Vốn xuất thân là người lính và bao nhiêu năm đau đáu với các vấn đề tài chiến tranh và số phận của người lính, ví người lính gắn với số phận của dân tộc. Nếu được bầu vào Ban chấp hành, tôi sẽ tham gia Ban sáng tác của Hội để làm sao thúc đẩy, lôi kéo các nhà văn đầu tư cho mảng đề tài chiến tranh cách mạng, nhất là cuộc chiến tranh biên giới phía bắc hiện đang còn là mảng trắng. 

Lịch sử từng ghi danh những Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thướng Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản, Lê Lợi, Trẫn Nguyên hãn, Nguyễn Trãi, Quang Trung .v.v. những danh nhân mà nếu không có họ không có giang sơn xã tắc của chúng ta bây giờ.

Mảng đề tài chiến tranh nhất là cuộc chiến tranh biên giới phía bắc bị bỏ quên lâu lắm rồi, nhất thiết phải viết, phải trả lại sự thật cho lịch sử đau thương và bi tráng của dân tộc…Tôi nghĩ đó là một việc rất lớn và Ban chấp hành Hội Nhà văn kỳ này nên tích cực bắt tay vào nhiệm vụ khó khăn này.

P.V.Đ: Xin trân trọng cảm ơn nhà văn Đào Thắng và chúc anh thành công.

Phạm Viết Đào Blog

TRÍCH NGANG MỘT VÀI NÉT TIỂU SỬ VĂN CHƯƠNG CỦA NHÀ VĂN ĐÀO THẮNG:

-Sinh năm 1946, vào bộ đội từ 9/1965 trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường Khu 4, Mặt trận đường 9, Quảng Trị, Trung Lào;

- Học viên Trường viết văn Nguyễn Du khóa 1;

- 2002 là Chánh văn phòng Hội Nhà văn VN hiện nay là chuyên viên Ban sáng tác Hội Nhà văn VN.

Tác phẩm đã xuất bản:

-Điểm cao thành phố-Tiểu thuyết năm 1982; Nước mắt -Tiểu thuyết 1991; Dòng sông mía-Tiểu thuyết 2004, tái bản 2004, 2005,2006; Đất xanh –Tiểu thuyết 2006; Dọc miền trung-Tiểu thuyết 208; Xứ sở Long- Tiểu thuyết 2010…

Các giải thưởng đã được nhận:

-Giải thưởng văn học đề tài Quốc phòng an ninh Hội Nhà văn Việt Nam 1991-1993; Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng ( 1989-1994 ) với tiểu thuyết Nước mắt; Giải thưởng Điện ảnh 5 năm Bộ Quốc phòng với các bộ phim: Thị xã yên tĩnh ( 1989 ), Nhịp sống mặt trận ( 1989 ), Chào nhé Apsara ( 1987 ); Giải A cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam ( 2003-2005 ) với tiểu thuyết Dòng sông mía…



Chiến dịch phản công biên giới Tây - Nam VN 
Quote Originally Posted by mơtiênView Post
Chiến tranh Kampuchia là chuyện phải làm . .
Sau Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xẩy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi Sài Gòn thất thủ. Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, sáu ngày sau quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu[4]. Tức giận vì hành vi gây hấn của Khmer Đỏ, Hà Nội phản công giành lại các đảo này. Trận đánh ở Phú Quốc làm nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập lo ngại, vì cùng thời gian đó, quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đang xấu đi. Mối lo ngại này càng tăng thêm vì sự hiện diện của cố vấn Trung Quốc ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ.

Tiếp theo cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh nhiều cuộc đột kích nhỏ, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập qui mô lớn vào Việt Nam. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chính qui Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường

Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 9 cùng năm, lần này 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích[6]. 

Để trả đũa, ngày 31 tháng 12 năm 1977, sáu sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào sâu trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978, mang theo một số nhân vật quan trọng bên phía Campuchia, trong đó có cả Thủ tướng tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao tranh tiếp diễn.

Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết của họ có ghi:"Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam". Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15-20 km.

Trong các đợt tấn công đó, Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3.157 dân thường bị giết hại. Từ năm 1975 cho tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị Khmer Đỏ sát hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới. 

Việt Nam cố gắng giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao, nhưng Khmer Đỏ từ chối đàm phán, Trung Quốc không chịu làm trung gian hòa giải, còn Liên Hợp Quốc không có biện pháp gì phản hồi lại các phản đối của chính quyền Việt Nam về các hành động gây hấn của Khmer Đỏ.[10] Việt Nam phải chuyển sang sử dụng vũ lực để giải quyết cuộc xung đột.

Từ tháng 12 năm 1977 đến 14 tháng 6 năm 1978, theo số liệu không chính thức từ một nhà nghiên cứu hải ngoại, phía Việt Nam bị thương vong 30.642 bộ đội, trong đó số chết là 6902 người. Hơn 30 vạn người phải tản cư về phía sau, bỏ hoang 6 vạn ha đất sản xuất. Còn theo cuốn "Cuộc chiến tranh bắt buộc" của Đại tá QĐNDVN Nguyễn Văn Hồng, có thể ước lượng Việt Nam bị thương vong 8.500 bộ đội, trong đó số chết là gần 3.000 người[11].

Ngày 13 tháng 12 năm 1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 10 trong 19 sư đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Trà Tiến (Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.

Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị chặn lại và không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm. Theo thống kê từ Việt Nam, từ tháng 6-1977 đến tháng 12-1978, họ đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống 5.800 lính khác[12]. Theo Tạp chí Time, quân Việt Nam tiến hành các cuộc không kích và giao tranh trên bộ, đánh vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới nhằm làm suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt khoảng 17 ngàn quân Khmer Đỏ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét