Gần như cùng khoảng thời gian với việc Nhà xuất bản Thế Giới của Bộ Văn Hóa-Thể Thao và Du Lịch cho in một số bộ luật Việt Nam bằng tiếng Hoa, bản Cẩm Nang Luật của nhóm Luật của Sự Thật được xuất bản bởi Luật Sư Nguyễn Văn Đài và Luật của Sự Thật.
1. Bạn có quyền biểu tình để bày tỏ lòng yêu nước hoặc bày tỏ chính kiến của mình về một vấn đề gì đó không?
Quyền biểu tình được qui định tại Điều 69 Hiến pháp năm 1992, là quyền Hiến định và là một trong những công cụ pháp lý để nhân dân thực hiện quyền lực của mình như qui định tại điều 2 Hiến pháp 1992 “…Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân...”.
Quyền biểu tình cũng là phương tiện để nhân dân bày tỏ ý chí, nguyện vọng và đòi hỏi của mình trước thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước.
Quyền biểu tình còn là vũ khí đấu tranh mạnh nhất và cuối cùng của nhân dân khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm sau khi tất cả các biện pháp giải quyết bằng thủ tục pháp lý khác không mang lại kết quả hài lòng cho nhân dân.
Do vậy bạn có quyền thực thi quyền biểu tình để bày tỏ lòng yêu nước hoặc bày tỏ chính kiến của mình về mọi vấn đề của đất nước.
2. Hiến pháp và luật pháp Việt Nam có cho phép và bảo vệ bạn khi bạn biểu tình bày tỏ chính kiến của mình một cách ôn hòa và trật tự không?
Điều 12 Hiến pháp qui định rằng mọi hành động xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị nghiêm trị. Điều 50 qui định rằng các quyền con người về chính trị được tôn trọng. Điều 71 qui định công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.Điều 7 Bộ luật tố tụng hình sự qui định công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật.
Như vậy theo các qui định trong Hiến pháp và luật, thì các quyền con người về chính trị của bạn như quyền biểu tình được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Khi bạn thực hiện quyền biểu tình thì tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của bạn được Hiến pháp và pháp luật bảo hộ.Những người nào xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bạn sẽ bị nghiêm trị.
3. Bạn có vi phạm luật pháp Việt Nam khi cùng bè bạn thực hiện quyền biểu tình để bày tỏ chính kiến của mình một cách hòa bình không?
Quyền biểu tình là một trong những quyền con người về chính trị đã được Hiến pháp trao cho bạn. Đồng thời hiện nay trong hệ thống các văn pháp luật của Việt Nam chưa có bộ luật nào qui định việc hạn chế quyền biểu tình của công dân.
Do đó khi bạn thực hiện quyền biểu tình của mình trong hòa bình thì hoàn toàn không vi phạm pháp luật.
4. Khi bị CA đòi bắt đem về đồn, bạn có quyền hỏi lý do và có quyền từ chối không đi cho tới khi có lý do chính đáng không? Nên đi theo CA về đồn hay là không?
Theo qui định tại Điều 71 Hiến pháp 1992 “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”.
Và tại Điều 6 Bộ luật TTHS: Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.”
Như vậy theo qui định tại Hiến pháp và Bộ luật TTHS, thì công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, không ai bị bắt nếu không có quyết định của tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của viện kiểm sát. Do đó khi bạn tham gia biểu tình mà bị cảnh sát hay an ninh đòi bắt giữ thì bạn có quyền yêu cầu họ nói rõ lý do bắt bạn, yêu cầu họ cho biết họ cho biết bạn vi phạm luật nào và điều bao nhiêu?
Trong trường hợp họ sử dụng vũ lực để cưỡng bức bạn về đồn cảnh sát, bạn nên tạm thời chấp hành để trách việc họ vu khống cho bạn chống người thì hành công vụ. Nhưng khi họ làm việc thì bạn cương quyết yêu cầu họ nói rõ lý do bắt bạn.
5. CA có quyền tạm giam bạn bao lâu trong tiến trình điều tra? Bạn có quyền yêu cầu để được gặp luật sư của bạn không?
a) Theo qui định của Bộ luât TTHS tại Điều 87 về thời hạn tạm giữ:
Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Như vậy thời hạn tạm giữ tối đa là 9 ngày.
- Theo qui định của Bộ luật TTHS tại Điều 120 về thời hạn tạm giam để điều tra:
Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;
Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;
Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
Như vậy thời hạn tạm giam tối đa là 16 tháng.
c) Theo qui định của Bộ luật TTHS tại Điều 11 về việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.
Như vậy bạn có quyền yêu cầu gặp luật sư của bạn ngay từ khi bạn bị tạm giữ. Bạn có quyền không trả lời bất cứ câu hỏi nào của cơ quan cảnh sát và bạn cũng có quyền từ chối làm việc với Cơ quan cảnh sát cho đến khi bạn gặp được luật sư của bạn. Bạn có quyền yêu cầu luật sư của bạn có mặt trong mọi cuộc làm việc với Cơ quan cảnh sát, trong mỗi bản lời khai đều phải có chữ ký của luật sư. Lý do của bạn là bạn không có đủ kiến thức pháp luật khi làm việc cũng như khi trả lời câu hỏi của Cơ quan cảnh sát và pháp luật cho bạn có quyền có luật sư từ khi bạn bị tạm giữ. Bạn có quyền không chấp nhận bất cứ lý do nào mà Cơ quan cảnh sát đưa ra để từ chối quyền có luật sư của bạn. Quyền tối cao của bạn là giữ im lặng cho tới khi bị đưa ra Tòa.
6. Nếu bị CA đánh thì bạn nên làm gì? Nếu bị CA la lối, sỉ nhục thì bạn nên làm sao?Theo qui định của Bộ luật TTHS tại Điều 7 về việc bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân:
“Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật.”
Như vậy khi công an đánh bạn, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của bạn thì họ đã vi phạm nghiệm trọng pháp luật, và những hành vi đó của họ sẽ bị xử lý theo pháp luật. Bạn cần học thuộc điều này để khi những người công an thực hiện hành vi vi phạm pháp luật với bạn, thì bạn nhắc nhở họ. Bạn yêu cầu gặp cấp trên của họ để khiếu nại. Sau khi được tự do, bạn có quyền làm đơn tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của những công an đó với Viện kiểm sát hoặc kiện họ ra tòa.
7. Bạn có quyền yêu cầu liên lạc với gia đình của bạn khi bị CA giam giữ hay không?
Theo qui định của Bộ luật TTHS tại Điều 85: thông báo về việc bắt:
“Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.”
Như vậy bạn có quyền yêu Cơ quan đang giam giữ bạn phải thông báo cho gia đình bạn biết về việc bạn bị bắt.
8. Bạn có nên ký giấy nhận tội hay không? Nếu bị ép phải ký giấy nhận tội thì bạn nên ứng xử ra sao?
Theo qui định của Bộ luật TTHS tại Điều 9:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.”
Như vậy chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết bạn là người có tội hay không. Bất kỳ người nào ép buộc bạn ký giấy nhận tội là họ đã vi phạm pháp luật. Bạn nhớ thuộc điều này để nhắc nhở những người ép buộc bạn.Bạn cương quyết từ chối việc ký giấy nhận tội.
9. Bạn có thể làm gì nếu CA áp lực nơi hãng xưởng hoặc công ty nơi bạn làm việc để đuổi bạn?
Nếu bạn có bằng chứng về việc công an gây áp với nơi bạn làm việc để họ đuổi việc bạn thì bạn có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật đó với thủ trưởng hoặc cơ quan cấp trên của người công an đó; tố cáo tới cơ quan báo chí. Đồng thời bạn có quyền kiện chủ công ty đã đuổi việc bạn một cách trái pháp luật ra Tòa Lao động.
10. Nếu như CA đe dọa gia đình bạn thì bạn có thể khiếu nại nơi đâu?
Điều 74 Hiến pháp năm 1992 qui định:
“Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
Như vậy khi công an khi công an đe dọa gia đình bạn thì bạn có quyền tố hành vi vi phạm pháp luật đó với thủ trưởng của người công an, hoặc cơ quan cấp trên của họ. Bạn cũng có thể gửi thông tin tới các cơ quan báo chí nhờ họ giúp đỡ. Những người công an có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bạn sẽ bị xử lý. Những thiệt hại mà họ gây ra cho gia đình bạn sẽ được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
11. Một số điều nên và không nên làm hoặc nói trong khi bị CA hỏi cung?
Theo qui định tại Điều 63 Bộ luật TTHS về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự:
“Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh:
Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;”
Như vậy, nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm pháp luật thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Bạn không có nghĩa vụ phải trả lời các câu hỏi của Cơ quan điều tra. Bạn có quyền giữ im lặng cho đến khi bạn bị đưa ra Tòa án để xét xử.Bạn có quyền yêu cầu luật sư của bạn có mặt trong buổi hỏi cung của Cơ quan điều tra, bạn có quyền tham khảo ý kiến luật sư của bạn về câu trả lời của bạn cho Cơ quan điều tra.
12. Thông báo của UBND thành phố Hà nội ngày 18-8-2011 có hạn chế được quyền biểu tình của công dân không?
Theo qui định tại khoản 2, Điều 1 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật của HĐND và UBND như sau: “Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân được ban hành dưới hình thức nghị quyết. Văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân được ban hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị.”
Như vậy, việc UBND thành phố Hà Nội ra Thông báo ngày 18-8-2011 là không đúng với qui định trên. Do đó Thông báo ngày 18-8-2011 của UBND thành phố Hà Nội không phải là văn bản qui phạm pháp luật, nó không có giá trị pháp lý để người dân cư trú trên địa bàn thành phố Hà Nội phải chấp hành.
13. Nghị định 38/2005/NĐ-CP quy định về một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng có hạn chế được quyền biểu tình của công dân không?
Về mặt pháp lý: Khái niệm “tập trung đông người nơi công cộng” và khái niệm “quyền biểu tình” rất khác nhau.
“Tập trung đông người nơi công cộng” là nhiều người dân tập trung tại công viên để tập thể dục tập thể hoặc vui chơi tập thể; nhiều người tập trung để mua vé xem phim ở rạp hát, mua hàng hóa ở siêu thị, cửa hàng; nhiều người tập trung để chờ xe buýt; nhiều người tập trung nơi đám cưới, đám tang ở những nhà tang lễ, nghĩa trang, trên đường phố; nhiều người tập trung xếp hàng chờ thăm viện bảo tàng, nhà văn hóa; nhiều người tập trung xếp hàng chờ đến lượt làm các thủ tục hành chính, khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan công quyền;…
Trong khi đó “quyền biểu tình” được qui định tại Điều 69 Hiến pháp năm 1992, là quyền Hiến định, là quyền con người về chính trị và là một trong những công cụ pháp lý để nhân dân thực hiện quyền lực của mình.
Do vậy Nghị định 38/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2005 không có giá trị pháp lý để hạn chế quyền biểu tình của công dân.
Nếu chính quyền áp đặt Nghị định 38/2005/NĐ-CP để hạn chế công dân thực hiện quyền biểu tình thì đó là hành vi vi Hiến, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền con người về chính trị.
Người dân có quyền khởi kiện những hành vi vi phạm Hiến pháp của những cán bộ, công chức đó ra Tòa án để xét xử theo pháp luật.
CẨM NANG PHÁP LÝ CHO QUYỀN TỰ DO HỘI HỌP, LẬP HỘI, LẬP ĐẢNG
- Quyền tự do hội họp, lập hội, lập đảng là các quyền con người về chính trị đã được Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ ghi nhận và đã được các văn bản luật cụ thể hóa. Đồng thời hàng năm các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam thường long trọng tuyên bố với các nhà lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới, các tổ chức Quốc tế và trên các diễn đàn của Liên hiệp quốc rằng ở Việt Nam các quyền con người về chính trị được ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và được tôn trọng cũng như thực thi trong thực tế. Để bảo vệ cũng như để thực thi các quyền con người về chính trị của mình thì mọi người dân cần được trang bị những kiến thức pháp lý. Trong tập 2 của cuốn Cẩm Nang Luật cho Bạn và Tôi này, chúng tôi xin giới thiệu với quí vị những kiến thức pháp lý về quyền tự do hội họp, quyền lập hội và lập đảng.
1. Bạn và những người cùng chính kiến hay quan điểm chính trị có quyền hội họp hay không? Có cần phải xin phép trước hay không?
Quyền hội họp của công dân Việt Nam được qui định tại Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992. Nhưng trước đó quyền tự do hội họp của công dân đã được qui định tại Điều 10 Hiến pháp Việt Nam năm 1946. Sau đó quyền tự do hội họp đã được cụ thể hóa trong Luật qui định quyền tự do hội họp. Luật này đã được ông Hồ Chí Minh ký ban hành theo Luật số 101/SL-L-003 ngày 20 tháng 5 năm 1957. Và ngày 14 tháng 6 năm 1957, ông Phạm Văn Đồng bấy giờ là Thủ Tướng đã ký ban hành Nghị định số 257-TTg qui định chi tiết thi hành luật số 101-SL/L003 ngày 20-5-1957 về quyền tự do hội họp.
Hiện nay Luật số 101/SL-L-003 ngày 20 tháng 5 năm 1957 và Nghị định số 257-TTg ngày 14 tháng 6 năm 1957 vẫn còn nguyên giá trị pháp lý. Theo qui định tại Điều 1 Luật số 101/SL/L/003 thì: “ Quyền tự do hội họp của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do hội họp.”
Điều 2 qui định những cuộc hội họp không phải xin phép trước như:
“- Các cuộc hội họp có tính chất gia đình, giữa thân thuộc, bè bạn;
- Các buổi sinh hoạt của các hội hợp pháp, tổ chức trong trụ sở của hội, các cuộc hành lễ thường lệ của các tôn giáo tổ chức trong những nơi thờ cúng;
- Các buổi sinh hoạt của các đoàn thể trong Mặt trân thống nhất, và các cuộc hội họp công cộng do các đoàn thể này tổ chức.”
Nghị định số 257-TTg qui định thêm rằng nếu các cuộc họp nêu trên có trên 20 người tham dự thì không phải xin phép nhưng phải thông báo cho Ủy ban hành chính (nay là UB nhân dân) địa phương nơi hội họp chậm nhất là 24 giờ trước giờ hội họp bằng giấy tờ hoặc bằng báo miệng.
Tại Điều 6 Luật số 101/SL-L-003 ngày 20 tháng 5 năm 1957 qui định: “ Người nào ngăn cản hoặc phá hoại các cuộc hội họp hợp pháp của người khác, ép buộc người khác tham gia dự vào các cuộc hội họp bất hợp pháp, bằng bất cứ cách nào, có thể bị cảnh cáo hoặc truy tố trước tòa án và bị xử phạt tù từ một tháng đến một năm.”
Khi bạn hội họp thì cần lưu ý các điều bị cấm được qui định trong Điều 7 Luật số 101/SL-L-003 ngày 20 tháng 5 năm 1957:
“Người nào lợi dụng quyền tự do hội họp để hoạt động trái pháp luật, chống lại chế độ, chống lại chính quyền dân chủ nhân dân, chia rẽ dân tộc, phá hoại tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, tuyên truyền chiến tranh, âm ưu phá hoại sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ, hành động có phương hại đến trật tự an ninh chung, hoặc đến thuần phong mỹ tục, sẽ bị truy tố trước tòa án và xử phạt theo luật lệ hiện hành, và cuộc hội họp sẽ bị cấm hoặc bị giải tán.”
Như vậy bạn và những người thân quen có cùng chính kiến, quan điểm chính trị hoặc bạn và những người trong cùng một tổ chức, đảng phái đã được thành lập hợp pháp có quyền tự do hội họp mà không cần phải xin phép.
2. Sự giống và khác nhau giữa hội và đảng phái chính trị như thế nào?
Tại Điều 2 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, ngày 21/4/2010 của Chính phủ qui định về tổ chức hoạt động và quản lý hội. Định nghĩa về hội như sau: “Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước
Hội có các tên gọi khác nhau: hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là hội).”
Đảng phái chính trị là một hình thức hội đặc biệt. Nhưng hội và đảng phái chính trị chỉ khác nhau về tên gọi còn về tất cả phạm vi hoạt động, nguyên tắc tổ chức hoạt động, điều kiện thành lập, thủ tục thành lập, quyền lợi và nghĩa vụ đều giống nhau.
3. Trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Việt Nam, có điều nào cấm người dân không được quyền thành lập một Đảng phái để bày tỏ chính kiến của họ trong hòa bình hay không?
Trong các bản Hiến pháp của Việt Nam từ Hiếp pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, và hiện nay Hiến pháp 1992 và cũng như trong hệ thống toàn bộ các văn bản pháp luật không có điều nào cấm công dân Việt Nam thành lập một đảng phái chính trị để bảy tỏ chính kiến của họ trong hòa bình. Hiến pháp 1992 đã qui định quyền lập hội tức quyền lập đảng tại Điều 69.
Trong khi đó quyền lập hội tức quyền lập đảng đã cụ thể hóa trong luật qui định quyền lập hội đã được ông Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 102/SL-L004 ngày 20 tháng 5 năm 1957 để công bố (luật này hiện nay vẫn còn hiệu lực pháp luật). Trong Điều 1 và Điều 2 của luật qui định quyền lập hội nêu rõ:
“Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta.
Mọi người đều có quyền lập hội, trừ những người mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố trước pháp luật.
Mọi người có quyền tự do vào hội thành lập hợp pháp và có quyền tự do ra hội.
Không ai được xâm phạm quyền lập hội và quyền tự do vào hội, ra hội của người khác.”
Như vậy công dân Việt Nam có quyền lập hội, lập đảng.
4. Vào năm 1945, chính phủ đầu tiên của Việt Nam là một chính phủ đa đảng, trong đó có sự hiện diện và tham dự của nhiều đảng phái khác ngoài đảng Cộng Sản Việt Nam, ví dụ như đảng Xã Hội, đảng Dân Chủ và Quốc Dân đảng. Vậy thì tại sao ngày hôm nay các đảng phái khác lại không được cho phép hoạt động?
Chính phủ đầu tiên của một nước Việt Nam độc lập là một chính phủ đa đảng vào năm 1945, lúc đó có sự tham của đảng Cộng sản, Quốc dân đảng, đảng Dân chủ và đảng Xã hội. Hệ thống chính trị có sự tham gia của các đảng phái chính trị khác nhau tồn tại cho đến năm 1988 khi mà đảng Xã hội và đảng Dân chủ tự tuyên bố giải tán với lý do hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Các đảng Dân chủ hay đảng Xã hội không bị giải thể theo bản án hay quyết định hành chính. Và từ năm 1988 đến nay không có một văn bản pháp luật nào cấm các đảng phái khác thành lập hay hoạt động tại Việt Nam.
Vậy tại sao ngày hôm nay không có đảng phái chính trị khác hoạt động công khai ở Việt Nam?
Tại Điều 8 luật số 102/SL-L004 ngày 20 tháng 5 năm 1957 có qui định: “Người nào lợi dụng quyền lập hội để hoạt động nguy hại đến nước nhà, lợi ích nhân dân như là chống lại pháp luật, chống lại chế độ, chống lại chính quyền dân chủ nhân dân, chia rẽ dân tộc, hại đến thuần phong mỹ tục, phá hoại sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của Tổ quốc, phá hoại tình hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước, tuyên truyền chiến tranh, sẽ bị truy tố trước tòa án và bị xử phạt theo luật hiện hành, hội có thể bị giải tán và tài sản của hội có thể bị tịch thu.”
Tại Điều 79 Bộ luật hình sự có qui định về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.
Việc thay đổi một chế độ chính trị, thay đổi đảng cầm quyền không nên là mục đích, cương lĩnh hoạt động của một đảng chính trị trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Việc thay đổi đó phải do nhân dân thực hiện thông qua một cuộc bầu tự do, dân chủ và công bằng. Hoặc việc thay đổi đó phải do một cuộc cách mạng dân chủ do chính nhân dân thực hiện.
Đảng Cộng sản vì muốn duy trì quyền lực tuyệt đối và họ không muốn có các đảng phái chính trị khác ra đời và hoạt động ở Việt Nam. Điều này thì hoàn toàn không phù hợp với Hiến pháp và tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam. Cơ quan an ninh của đảng Cộng sản luôn dò xét trong mục đích và cương lĩnh hoạt động của các đảng phái xem có nội dung chống lại họ hay không? Nếu có thì họ sử dụng Điều 79 Bộ luật hình sự để bắt giữ, truy tố và xét xử các thành viên của các đảng phái đó. Do vậy các đảng phái chính trị khác nên nghiên cứu mục tiêu, cương lĩnh hoạt động của mình sao cho phù hợp để tránh bị tổn thất và giảm thiểu những lý cớ mà chính quyền có thể qui chụp.
5. Dựa vào đâu mà nhà nước Việt Nam cản trở không cho một đảng phái khác ngoài Đảng Cộng Sản Việt Nam hoạt động?
Chính quyền của đảng Cộng sản Việt Nam đang dựa vào Điều 4 Hiến pháp 1992 qui định về quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội của đảng Cộng sản Việt Nam.
Bất kỳ đảng phái chính trị nào có mục đích và cương lĩnh hoạt động nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng sản theo Điều 4 Hiến pháp 1992, thay đổi chế độ chính trị thì sẽ bị qui kết phạm vào Điều 79 Bộ luật hình sự. Ngôn ngữ tiếng Việt rất phong phú do vậy có rất nhiều hình thức sử dụng ngôn ngữ cho các đảng phái chính trị lựa chọn trong mục đích và cương lĩnh chính trị của mình. Sự lựa chọn phù hợp sẽ không chỉ đem đến thành công cho đảng phái chính trị đó mà còn đem đến sự thành công trong công cuộc dân chủ hóa đất nước. Sự lựa chọn phù hợp sẽ tránh cho các thành viên của đảng bị bắt và bị cầm tù.
6. Trong những năm gần đây, có rất nhiều công dân Việt Nam bị bắt và xử án tù rất nặng vì họ đã có ý thành lập một Đảng riêng của họ hoặc tham gia một Đảng phái khác – vậy thì dựa vào luật pháp Việt Nam, việc một công dân thành lập hoặc tham gia vào một Đảng phái ngoài Đảng Cộng Sản Việt Nam thì có phạm luật hay không?
Theo Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam, công dân Việt Nam có quyền thành lập đảng, có quyền tự do vào đảng hay ra đảng. Nhưng khi thành lập đảng phải làm sao khi đặt ra mục đích, cương lĩnh của đảng phải phù với những qui định của Hiến pháp và luật pháp hiện hành. Một đảng chính trị khi đã có đông đảo nhân dân ủng hộ, có nhiều thành viên thì khi đó có thể thay đổi mục đích, mục tiêu và cương lĩnh của đảng.
Mỗi công dân Việt Nam khi có ý định gia nhập vào một đảng phái nào đó, trước hết hay xem xét kỹ mục đích và cương lĩnh của đảng đó có phù hợp với Hiến pháp và pháp luật hiện hành của Việt Nam hay không. Điều này liên quan đến sinh mệnh chính trị của chính bản thân họ. Sự lựa chọn đúng khi tham gia một đảng phái chính trị sẽ giúp cho họ có những sự đóng góp tích cực cho nhân dân và đất nước.
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng chính quyền trong nhiều năm qua đã lạm dùng điều 79 Bộ luật hình sự để qui kết và xử án tù nhiều công dân Việt Nam, nhưng trên thực chất thì những người này chỉ nói lên tiếng nói yêu nước hoặc phản ảnh một số phê bình trên một số chính sách của chính phủ. Việc xử dụng luật pháp một cách tùy tiện để bắt bớ hoặc cấm người dân thực thi quyền bày tỏ chính kiến của mình qua việc thành lập đảng là vi hiến và vi phạm pháp luật Việt Nam.
7. Có điều nào trong Hiến Pháp Việt Nam qui định rằng đất nước Việt Nam chỉ được phép có một Đảng duy nhất tồn tại và hoạt động không?
Trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, sau đó là Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, và hiện nay là Hiến pháp 1992 không có điều nào qui định rằng ở Việt Nam chỉ cho phép một đảng Cộng sản được tồn tại và hoạt động.
8. Nếu muốn thành lập Đảng thì phải làm sao? Nên có những bước cụ thể như thế nào?
Theo qui định tại Điều 3 Luật số 102/SL-L004 ngày 20 tháng 5 năm 1957 thì công dân Việt Nam muốn thành lập đảng phải xin phép.
Điều kiện và thủ tục thành lập hội, thành lập đảng được qui định tại chương II, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ qui định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
“Điều 5. Điều kiện thành lập hội
1. Có mục đích hoạt động không trái với pháp luật; không trùng lặp về tên gọi và lĩnh vực hoạt động chính với hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trên cùng địa bàn lãnh thổ.
2. Có điều lệ;
3. Có trụ sở;
4. Có số lượng công dân, tổ chức Việt Nam đăng ký tham gia thành lập hội:
a) Hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh có ít nhất một trăm công dân, tổ chức ở nhiều tỉnh có đủ điều kiện, tự nguyện, có đơn đăng ký tham gia thành lập hội;…..
Đối với hội nghề nghiệp có tính đặc thù chuyên môn, số lượng công dân và tổ chức tự nguyện đăng ký tham gia thành lập hội do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này xem xét quyết định từng trường hợp cụ thể.
Điều 6. Ban vận động thành lập hội
1. Muốn thành lập hội, những người sáng lập phải thành lập ban vận động thành lập hội. Ban vận động thành lập hội được cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội dự kiến hoạt động công nhận.
2. Người đứng đầu ban vận động thành lập hội là công dân Việt Nam, sống thường trú tại Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có sức khoẻ và có uy tín trong lĩnh vực hội dự kiến hoạt động.
3. Số thành viên trong ban vận động thành lập hội được quy định như sau:
a) Hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh có ít nhất mười thành viên;….
4. Hồ sơ đề nghị công nhận ban vận động thành lập hội lập thành hai bộ, hồ sơ gồm:
a) Đơn xin công nhận ban vận động thành lập hội, trong đơn nêu rõ tên hội, tôn chỉ, mục đích của hội, lĩnh vực mà hội dự kiến hoạt động, phạm vi hoạt động, dự kiến thời gian trù bị thành lập hội và nơi tạm thời làm địa điểm hội họp;
b) Danh sách và trích ngang của những người dự kiến trong ban vận động thành lập hội: họ, tên; ngày, tháng, năm sinh; trú quán; trình độ văn hóa; trình độ chuyên môn.
5. Công nhận ban vận động thành lập hội:
a) Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội dựkiến hoạt động quyết định công nhận ban vận động thành lập hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh;
d) Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ đầy đủ, hợp pháp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại các điểm a, b và c khoản 5 Điều này có trách nhiệm xem xét, quyết định công nhận ban vận động thành lập hội; trường hợp không đồng ý phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.
6. Nhiệm vụ của ban vận động thành lập hội sau khi được công nhận:
a) Vận động công dân, tổ chức đăng ký tham gia hội;
b) Hoàn chỉnh hồ sơ xin phép thành lập hội theo quy định tại Điều 7 của Nghị định này. Sau khi đã hoàn tất việc trù bị thành lập hội, ban vận động thành lập hội lập thành hai bộ hồ sơ gửi đến: Bộ Nội vụ đối với hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh;…
Ban vận động thành lập hội tự giải thể khi đại hội bầu ra ban lãnh đạo của hội.
Điều 7. Hồ sơ xin phép thành lập hội
1. Đơn xin phép thành lập hội.
2. Dự thảo điều lệ.
3. Dự kiến phương hướng hoạt động.
4. Danh sách những người trong ban vận động thành lập hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
5. Lý lịch tư pháp người đứng đầu ban vận động thành lập hội.
6. Văn bản xác nhận nơi dự kiến đặt trụ sở của hội.
7. Bản kê khai tài sản do các sáng lập viên tự nguyện đóng góp (nếu có).
Điều 8. Nội dung chính của Điều lệ hội
1. Tên gọi của hội.
2. Tôn chỉ, mục đích, lĩnh vực và phạm vi hoạt động của hội.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của hội.
4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội.
5. Thể thức vào hội, ra hội, thẩm quyền kết nạp, khai trừ hội viên.
6. Tiêu chuẩn hội viên.
7. Quyền, nghĩa vụ của hội viên.
8. Cơ cấu, tổ chức, thể thức bầu và miễn nhiệm; nhiệm vụ, quyền hạn của ban lãnh đạo, ban kiểm tra, các chức vụ lãnh đạo khác của hội; nguyên tắc, hình thức biểu quyết.
9. Tài sản, tài chính và phương thức quản lý tài sản, tài chính của hội.
10. Điều kiện giải thể và thanh quyết toán tài sản, tài chính.
11. Khen thưởng, kỷ luật; khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong nội bộ hội.
12. Thể thức sửa đổi, bổ sung điều lệ.
13. Hiệu lực thi hành.
Điều 9. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hội khi nhận hồ sơ xin phép thành lập hộiCơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này khi nhận hồ sơ xin phép thành lập hội phải có giấy biên nhận. Trong thời hạn sáu mươi ngày kể từ ngày nhận hồ sơ đầy đủ, hợp pháp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, quyết định cho phép thành lập hội; trường hợp không đồng ý phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.
Điều 10. Thời gian tiến hành đại hội thành lập hội
1. Trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày quyết định cho phép thành lập hội có hiệu lực, ban vận động thành lập hội phải tổ chức đại hội.
2. Nếu quá thời hạn trên không tổ chức đại hội, thì trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày hết thời hạn tổ chức đại hội theo quy định tại khoản 1 Điều này, ban vận động thành lập hội có văn bản gửi cơ quan nhà nước đã quyết định cho phép thành lập hội đề nghị gia hạn. Thời gian gia hạn không quá ba mươi ngày, nếu quá thời gian được gia hạn mà không tổ chức đại hội thì quyết định cho phép thành lập hội hết hiệu lực.
Điều 11. Nội dung chủ yếu trong đại hội thành lập hội
1. Công bố quyết định cho phép thành lập hội.
2. Thảo luận và biểu quyết điều lệ.
3. Bầu ban lãnh đạo và ban kiểm tra.
4. Thông qua chương trình hoạt động của hội.
5. Thông qua nghị quyết đại hội.
Điều 12. Báo cáo kết quả đại hội
Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày đại hội, ban lãnh đạo hội gửi tài liệu đại hội đến cơ quan nhà nước đã quyết định cho phép thành lập hội, gồm:
1. Điều lệ và biên bản thông qua điều lệ hội;
2. Biên bản bầu ban lãnh đạo, ban kiểm tra (có danh sách kèm theo) và lý lịchngười đứng đầu hội;
3. Chương trình hoạt động của hội;
4. Nghị quyết đại hội.
Điều 13. Phê duyệt điều lệ hội và hiệu lực của điều lệ hội
1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này quyết định phê duyệt điều lệ hội khi điều lệ hội đã được đại hội thông qua. Trường hợp quy định của điều lệ hội trái với pháp luật thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ chối phê duyệt và yêu cầu hội sửa đổi.
2. Điều lệ hội có hiệu lực kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định phê duyệt.
Điều 14. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể, đổi tên và phê duyệt điều lệ hội
1. Bộ trưởng Bộ Nội vụ cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể; đổi tên và phê duyệt điều lệ đối với hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh, trừ trường hợp luật, pháp lệnh có quy định khác.”
9. Những Đảng phái đã từng tham gia chính quyền trong quá khứ hoặc đã có công đóng góp dành độc lập cho đất nước Việt Nam, tức là những hoạt động của họ đã từng được công nhận như Đảng Dân Chủ, Đảng Xã Hội, Quốc Dân Đảng,…những Đảng phái này có quyền phục hoạt hoặc tái hoạt động hay không?
Theo Hiến pháp và luật pháp hiện hành của Việt Nam thì không có qui định nào cấm các đảng phái chính trị đã tự tuyên bố giải thể nhưng nay muốn phục hoạt trở lại. Đặc biệt là những đảng phái đã được thành lập trước đây ở Việt Nam, đồng thời đã từng tham gia trong chính quyền. Sau đó đã tự nguyện giải thể, nay các đảng phái chính trị này hoàn toàn có quyền phục hoạt hoặc tái hoạt động. Họ chỉ cần gửi thông báo đến cơ quan có thẩm quyền mà thôi.
10. Nếu như các quyền công dân được ấn định trong Hiến Pháp và Luật Pháp Việt Nam bị xâm phạm, thì người công dân đó có quyền khởi kiện không? và hiện nay Việt Nam có một cơ quan tài phán độc lập nào để giải quyết các tranh chấp mà không bị tác động hoặc ràng buộc bởi nhà nước hay không?
Điều 7 luật số 102/SL-L004 ngày 20 tháng 5 năm 1957 qui định về quyền lập hội như sau: “Người nào xâm phạm đến quyền lập hội hoặc đến quyền tự do vào hội, ra hội của người khác có thể bị cảnh cáo hoặc bị truy tố trước tòa án và …”
Điều 6 luật số 101/SL-L003 ngày 20 tháng 5 năm 1957 qui định về quyền tự do hội họp như sau: “Người nào ngăn cản hoặc phá hoại các cuộc hội họp hợp pháp của người khác, ép buộc người khác vào các cuộc hội họp bất hợp pháp, bằng bất cứ cách nào, có thể bị phạt cảnh cáo hoặc bị truy tố trước tòa án và …”
Như vậy theo qui định của pháp luật, những công dân Việt Nam khi bị người khác xâm phạm đến các quyền con người của mình thì có quyền kiện những người vi phạm đó ra tòa án.
Ở Việt Nam hiện nay tất cả các cơ quan tư pháp đều dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản cầm quyền. Do vậy sự độc lập của các cơ quan tài phán là một sự sa sỉ. Mục tiêu đấu tranh dân chủ hóa đất nước trong đó đã bao gồm việc xây dựng một hệ thống các cơ quan tài phán độc lập.
11. Nếu một đất nước có dân chủ với thể chế chính trị đa đảng thì có lợi hay có hại cho sự phát triển và tồn vong của quốc gia đó?
Chúng ta đều nhận thấy rằng trên thế giới những quốc gia giàu có, hùng mạnh và văn minh đều là những nước có thể chế chính trị dân chủ đa đảng. Nền chính trị dân chủ sẽ là cơ sở quan trọng nhất, tạo cho mỗi công dân của quốc gia đó có cơ hội về chính trị một cách bình đẳng trong việc tham gia xây dựng đất nước. Sự cạnh tranh giữa các đảng phái chính trị trong việc đưa ra những chiến lược phát triển quốc gia sẽ đem lại cho nhân dân có quyền quyết định và lựa chọn con đường tốt nhất cho quốc gia của mình. Trong các quốc gia độc đảng phi dân chủ, thì đảng cầm quyền áp đặt đường lối, chính sách và người dân chỉ có nghĩa vụ thực hiện mà không có quyền chọn lựa.
Trong một thế giới đầy biến động, các quốc gia có cùng chung lợi ích tìm mọi cách để liên minh, liên kết với nhau để bổ sung sức mạnh cho nhau về kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng, an ninh. Không một quốc gia nào có thể đứng độc lập để phát triển kinh tế cũng như tự bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chúng ta cũng nhận thấy rằng chỉ những quốc gia cùng có chung thể chế chính trị dân chủ đa đảng thì họ dễ dàng xây dựng mối quan hệ đồng minh. Các quốc gia có chế độ chính trị độc đảng phi dân chủ thì gần như không thể hội nhập toàn diện trong một mối liên kết khu vực, chưa nói gì đến việc xây dựng mối quan hệ đồng minh với các quốc gia dân chủ.
Với Việt Nam của chúng ta, dân chủ hóa xã hội hiện nay là nguyện vọng của tất cả mội người dân Việt Nam. Thực hiện dân chủ hóa tức là đảng Cộng sản Việt Nam tôn trọng các quyền con người về chính trị của nhân dân Việt Nam, như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do làm báo chí tư nhân, quyền tự do hội họp, tự do lập hội, lập đảng, quyền biểu tình.
Thực hiện dân chủ hóa là xóa bỏ đi sự khác biệt về chính trị giữa Việt Nam với thế giới, đặc biệt là các cường quốc dân chủ. Việt Nam sẽ có cơ hội để xây dựng quan hệ đồng minh về kinh tế, chính trị, quân sự với các quốc gia dân chủ. Điều này sẽ giúp cho chúng ta có được sự giúp đỡ để phát triển kinh tế, thương mại. Chúng ta cũng sẽ nhận được sự giúp đỡ về quân sự, an ninh và điều này sẽ làm giảm nhẹ gánh nặng chi phí quốc phòng cho nhân dân.
Khi đó chúng ta không chỉ có sức mạnh của quốc gia mà chúng ta còn có sức mạnh của các đồng minh trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh hải của Tổ quốc.
12. Trách nhiệm của mỗi công dân Việt Nam trong việc xây dựng chế độ xã hội dân chủ?
Việc xây dựng một chế độ xã hội dân chủ phải xuất phát từ hai phía chính quyền và người dân. Trong khi đảng cầm quyền luôn muốn duy trì sự cai trị độc đoán của mình thì sự nghiệp dân chủ hóa đất nước trở thành trách nhiệm của mỗi một công dân.
Hiện nay, đại đa số nhân dân đều có mong ước, khát khao về một xã hội dân chủ, nhưng lại có quá ít công dân dám thực hiện các quyền con người về chính trị của mình để đạt được những mong ước, khát khao đó. Việc có quá ít người thực thi các quyền chính trị của mình làm cho chính quyền coi thường điều đó và dẫn đến những hành động sách nhiễu, đàn áp, bắt giữ và giam cầm những công dân yêu nước.
Thực hiện các quyền con người về chính trị là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mỗi công dân Việt Nam. Đó còn là biểu hiện của lòng yêu nước, thể hiện trách nhiệm không chỉ đối với các thế hệ người Việt Nam ngày hôm nay mà cả các thế hệ mai sau. Thực hiện các quyền con người về chính trị cũng là thực hiện việc đấu tranh cho dân chủ hóa đất nước. Đó là con đường chính nghĩa, phù hợp với sự vận động, phát triển tất yếu của xã hội và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Quyền tự do ngôn luận, Quyền được thông tin
Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền, 10 tháng 12 sắp đến đây, Luật của Sự Thật xin trân trọng giới thiệu đến quí bạn Tập 3 của cuốn cẩm nang “Luật cho Bạn và Tôi”. Tập 3 sẽ nói về quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin. Đây là một trong những quyền căn bản của con người về chính trị mà không thể bị hạn chế hay tước đoạt. Có lẽ trong tất cả các quyền căn bản được liệt kê trong Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị, thì đây là một trong những quyền mà thường bị các nhà độc tài hoặc các thể chế độc đảng vi phạm nhất. Lý do đơn giản là vì họ biết rằng khi khống chế hoặc độc quyền được truyền thông, tức là cấm sự thông tin đa chiều thì sẽ dễ dàng cai trị, hoặc có thể dẹp tan ngay những ý kiến trái ngược cho dù đây là những kiến nghị tích cực. Bưng bít thông tin hay độc quyền tuyên truyền là một phương tiện lợi hại và cần thiết để bảo toàn quyền lực của một chính phủ. Dựa vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà Việt Nam là một thành viên thì không một chính phủ nào có thể ban tặng các quyền này cho người dân mà các chính phủ đó phải có trách nhiệm bảo vệ người dân khi họ thực hiện các quyền này. Xin mời quý bạn tìm hiểu thêm với những câu hỏi và giải đáp sau đây:
1) Trong Hiến Pháp và Luật Pháp Việt Nam có điều khoản nào bảo vệ quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin của người dân không?
Quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin được qui định tại điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992. Ngoài ra quyền tự do ngôn luận còn được cụ thể hóa trong luật báo chí năm 1989 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 1999. Luật thông tin đang được Quốc hội Việt Nam soạn thảo.
Ngoài ra quyền tự do ngôn luận còn được bảo vệ theo qui định tại Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị:
“ (i) Mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.
(ii) Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.”
Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế ban hành năm 2005 qui định tại khoản 6 Điều 3 như sau: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Khoản 1 Điều 6 qui định: “ Trong trường hợp văn bản qui phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng qui định của điều ước quốc tế.”
Việt Nam đã gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị vào ngày 24 tháng 9 năm 1982.
Như vậy trong trường hợp các qui định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin chưa đầy đủ thì các qui định về điều này của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được áp dụng thay thế ở Việt Nam.
2) Quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin khác nhau ở chỗ nào? Và khi nói đến quyền tự do ngôn luận thì nó có bao gồm mọi phương tiện biểu đạt hay không, hay là luật pháp chỉ giới hạn trong một vài phương tiện truyền thông mà thôi?
Quyền tự do ngôn luận là công dân có quyền tự do phát biểu ý kiến, quan điểm của mình về tình hình đất nước và thế giới; công dân có quyền góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của đảng cầm quyền, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các thành viên của các tổ chức đó. Quyền này còn bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến khác nhau.
Quyền được thông tin là qui định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền phải thông tin đến người dân về các vấn đề của đất nước mà không thuộc bí mật quốc gia. Đồng thời luật pháp phải qui định trong một thời gian nhất định thì các cơ quan nhà nước, chính quyền phải tiến hành giải mã các thông tin mật đó và công bố cho nhân dân được biết.
Khi công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do ngôn luận thì họ có quyền kết hợp cả qui định của luật pháp Việt Nam và qui định của Công ước quốc tế. Như vậy công dân Việt Nam có quyền sử mọi hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ mà không phân biệt ranh giới quốc gia.
3) Hiện nay tại Việt Nam có quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin không?
Ở Việt Nam, trong Hiến pháp và pháp luật thì có ghi nhận quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin như đã trình bày trong câu số một. Đồng thời chính phủ Việt Nam luôn luôn tuyên bố họ tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin của người dân trong cuộc sống.
Còn trong trong thực tiễn, theo quan điểm riêng của cá nhân chúng tôi, thì tại Việt Nam không có quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin.
4) Cả nước Việt Nam hiện nay có một cơ quan truyền thông hay truyền hình tư nhân nào không, hay tất cả đều trực thuộc cơ quan nhà nước? Và nếu trực thuộc cơ quan nhà nước thì có sự độc lập trong vấn đề nội dung chuyển tải không hay tất cả đều phải thông tin tuyên truyền theo chỉ thị của Ban Tuyên Giáo Trung Ương?
Hiện nay ở Việt Nam chưa có cơ quan truyền thông hay truyền hình tư nhân nào. Việt Nam có khoảng trên 600 tờ báo, đài phát thanh, truyền hình nhưng đều do các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương quản lý và kiểm soát.
Những nội dung thông tin về những vấn đề chính trị nhạy cảm thì các cơ quan truyền thông phải thực hiện theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Thông tin và Ban tuyên giáo trung ương.
5) Nếu như tôi và một số bạn bè tôi muốn đề xuất một tờ báo tư thì tôi có cần phải xin phép hay không? Và nếu có thì phải xin phép cơ quan nào?
Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 qui định rằng công dân Việt Nam có quyền tự do báo chí. Tức là công dân Việt Nam có quyền bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình trên các phương tiện truyền thông hiện có và công dân Việt Nam có quyền thành lập báo chí tư nhân để bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình.
Nhưng trong luật báo chí năm 1989 chỉ qui định thủ tục cấp phép thành lập cơ quan báo chí cho tổ chức, hay một cơ quan chính phủ mà không có qui định thủ tục cấp phép thành lập báo chí cho công dân.
Dựa vào những điều trên bạn có quyền thực hiện quyền tự do báo chí đã được qui định tại Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 mà không cần phải xin phép. Tuy nhiên, trong quá khứ đã có nhiều trường hợp các tờ báo tư nhân có nội dung nhảy cảm hoặc phê bình một số chính sách nhà nước đã bị cấm hoạt động và gán ghép cho tội danh tuyên truyền chống nhà nước. Vì vậy, trên căn bản luật pháp thì bạn có quyền đề xuất tờ báo hoặc các phương tiện truyền thông tư nhân nhưng nên cẩn trọng vì có thể bị bắt bởi những điều nêu trên.
6) Nếu như tôi cùng một số bạn bè đi phân phát những tờ bướm hay những tờ truyền đơn để cỗ vũ cho nhóm/hội hay một quan điểm chính trị ôn hòa nào đó thì việc này có được bảo vệ trong quyền tự do ngôn luận hay không?
Theo qui định của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, qui định của Hiến pháp Việt Nam thì bạn có quyền sử dụng mọi phương tiện khác nhau để bày quan điểm của mình và quan điểm của người khác hay quan điểm của một tổ chức chính trị ôn hòa nào đó. Miễn là nội dung của những tờ bớm hay truyền đơn đó không cổ vũ cho bạo lực, không đòi lật đổ chính quyền hợp hiến, không vu cáo, phỉ bang, không tục tục tĩu hay kích động các hành vi dâm ô, không kích thích sự thù hằn dân tộc…
7) Gần đây có một số tập truyện và sách xuất bản bị Sở Thông Tin cấm hoặc thu hồi lại vì nó phản ảnh thực trạng của xã hội. Vậy việc làm này của Sở Thông Tin có đúng với pháp luật Việt Nam không?
Theo qui định tại Điều 30 luật xuất bản năm 2005, cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện những xuất bản phẩm có vi phạm Điều 10 thì có quyền tạm đình chỉ phát hành, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, tiêu hủy.
Điều 10 qui định như sau: “Những hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản
1. Tuyên truyền chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2. Tuyên truyền, kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động, lối sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục.
3. Tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác do pháp luật quy định.
4. Xuyên tạc sự thật lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, vĩ nhân, anh hùng dân tộc; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân.”
Trong thực tế có những cuốn sách phản rất đúng đắn thực trạng xã hội, được người dân yêu thích và tìm đọc. Trong khi chính quyền nhìn nhận dưới góc độ không có lợi chính thể độc đảng, họ cho rằng những cuốn sách như sẽ gây sự bất bình trong nhân dân với chính quyền. Do vậy cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ căn cứ vào một trong bốn điểm trên của Điều 10 Luật xuất bản để đình chỉ phát hành, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, hoặc tiêu hủy.
8) Còn những phương tiện mạng xã hội như web, facebook, blog, .…thì sao? Bạn có quyền tham gia, tự thành lập, kết nối bạn bè hoặc chuyển tải những thông tin qua những phương tiện này không?
Bạn có quyền tham gia, tự thành lập, kết nối bạn bè hoặc chuyển tải những thông tin qua các phương tiện mạng xã hội như web, facebook, blog,… khi nhà cung cấp dịch vụ được đặt ở một quốc gia khác. Bởi khi nhà cung cấp cho phép bạn sử dụng dịch vụ của họ thì họ đã được thành lập hợp pháp tại quốc gia đó. Nhà cung cấp dịch vụ và những dịch vụ mạng của họ mà bạn sử dụng chịu sự điều chỉnh của luật pháp nơi nhà cung cấp dịch vụ đăng ký và chịu sự điều chỉnh của Công ước quốc tế.
Luật pháp Việt Nam không có điều nào cấm bạn sử dụng các phương tiện mạng xã hội của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như vậy.
Các nội dung thông tin mà bạn chuyển tải trên các phương tiện mạng xã hội thì chịu sự điều chỉnh của pháp luật nơi nhà cung cấp dịch vụ đăng ký. Luật pháp Việt Nam không thể kiểm soát các thông tin này.
9) Tại sao một số blogs, websites và ngay cả facebook bị chính quyền chặn tường lửa hoặc cấm không cho người dân vào xem? Và nếu như bạn bị công an bắt tra hỏi vì những bài vở bạn viết được đăng trên các mạng xã hội thì bạn phải ứng đối như sao? Bạn có phạm luật không khi làm những việc đó?
Trong một xã hội dân chủ, các quyền tự do ngôn luận và tự báo chí được tôn trọng và thực thi trên thực tế thì các phương tiện truyền thông trong quốc gia đó sẽ được tự đăng tải các thông tin, các quan điểm, ý kiến khác nhau, đối lập với nhau về cùng một vấn đề, một hiện tượng là việc bình thường. Người dân sẽ có điều kiện để tiếp cận và biết đến những ý kiến, quan điểm khác nhau về các vấn đề chính trị xã hội. Và như vậy mọi người có đủ thông tin để đánh giá đúng những vấn đề đó. Điều này thúc đẩy xã hội phát triển một cách văn minh, đem lại lợi ích cho tất cả mọi người.
Trong xã hội dân chủ, các thông tin, ý kiến, quan điểm đối lập được đăng tải công khai. Nó giúp cho đảng cầm quyền nhận ra những sai lầm, khuyết điểm của họ để họ sửa chữa, khắc phục trước khi quá muộn. Điều này sẽ đem lại lợi ích nhân dân và đất nước.
Ở Việt Nam đang duy trì chế độ chính trị độc đảng không còn phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế và bảo đảm thực thi các quyền con người. Để bảo đảm duy trì địa vị độc đảng của mình thì các cơ quan an ninh của đảng cộng sản phải ngăn chặn những thông tin đối lập, trái chiều không có lợi cho họ. Do vậy họ phải sử dụng kỹ thuật để lập nên những bức tường lửa ngăn chặn những blogs, websites, facebook,…
Trong khi sự hiểu biết về dân chủ, nhân quyền, thậm chí cả sự hiểu biết về pháp luật Việt Nam và quốc tế của cơ quan an ninh Việt Nam còn yếu kém. Bạn phải thận trọng khi sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình.
Bạn phải tuân thủ nguyên tắc là không bao giờ lưu giữ những thông tin, bài vở của bạn cũng như của người khác trong máy tính, trong nhà và nơi làm việc của bạn.
Khi bạn được cơ quan an ninh mời đi làm việc, họ sẽ in những bài viết trên blogs, websites, facebook, …. Họ sẽ hỏi bạn có biết những bài viết này không? Chúng có phải của bạn không? Bạn không có nghĩa vụ phải trả lời câu hỏi của họ.
Trước hết bạn phải bình tĩnh hỏi lại họ là họ đã lấy những bài viết này ở đâu? Những blogs, websites, facebook,… đó có đăng ký ở Việt Nam không? Những blogs, websites, facebook, … đó có chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam không?
Bạn nên hiểu là nhà cung cấp dịch vụ cho bạn và những thông tin, bài viết của bạn trên đó là hoàn toàn hợp pháp theo luật pháp của nước nơi mà họ đăng ký, phù hợp với Công ước quốc tế. Đồng thời các trang blogs, websites, facebook,… không chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Pháp luật Việt Nam không có điều nào cấm công dân của mình sử dụng các trang blogs, websites, facebook của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Bạn không cần trả lời là biết hay không biết các bài viết đó. Bạn cũng không cần trả lời nó có phải của bạn hay không. Bạn không cần phải ký xác nhận các bài viết đó là không phải của bạn.
Tóm lại bạn có quyền từ chối trả lời mọi câu hỏi của họ, từ chối mọi yêu cầu của họ. Việc bạn từ chối yêu cầu của cơ quan an ninh hoàn toàn không vi phạm pháp luật Việt Nam. Bạn có quyền tự bảo vệ mình bằng cách im lặng cho tới khi gặp luật sư của bạn.
Nếu cơ quan an ninh cố tình sử dụng các thông tin, bài viết trên các trang blogs, websites, facebook, … để chống lại bạn thì họ đã vi phạm pháp luật của nước mà nhà cung cấp dịch vụ cho bạn đăng ký, họ đã vi phạm Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
10) Trong thời gian qua, có nhiều bloggers bị bắt và chịu án tù vì họ viết những bài bày tỏ quan điểm của mình qua những vấn đề như bô-xít, bảo vệ chủ quyền Việt Nam, hay phê bình tình trạng tham nhũng: Vậy họ đã vi phạm tội gì? Và điều luật 88 bộ luật hình sự nghĩa như thế nào?
Trong những năm qua có nhiều bloggers đã bởi lương tâm và trách nhiệm của mình với nhân dân và đất nước. Và họ đã có những bài viết bày tỏ quan điểm riêng tư của họ về những vấn đề xã hội như khai thác bô xít, tham nhũng hay bảo vệ chủ quyền quốc gia. Những ý kiến, quan điểm của họ mang tính chất cá nhân, nhưng chúng lại phản ánh ý kiến, quan điểm và những bức xúc của đại đa số nhân dân. Thật đáng tiếc, lẽ ra chính quyền nên lắng những ý kiến, quan điểm của họ. Từ đó thay đổi chính sách cho phù hợp, tiến hành dân chủ đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Nhưng chính quyền đã sách nhiễu, bắt giam và cầm tù nhiều người vì việc bày tỏ ý kiến, quan điểm riêng của họ.
Hầu hết những bloggers đều bị cáo buộc vi phạm Điều 88 Bộ luật hình sự với tội danh là tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ luật hình sự trong đó có Điều 88 được Quốc hội ban hành năm 1985, đó là thời kỳ chiến tranh lạnh, nền kinh tế Việt Nam theo thể chế quan liêu bao cấp. Việt Nam chưa mở cửa và chưa tham gia hội nhập quốc tế. Thời kỳ đó báo chí, phát thanh, truyền hình, điện thoại còn rất đơn sơ. Ở Việt Nam chưa có internet.
Ngày nay, mọi thứ đã thay đổi, chiến tranh lạnh đã kết thúc nhiều thập kỷ. Thế giới đã trở nên phẳng hơn. Báo chí, phát thanh, truyền hình, điện thoại, internet đã phủ kín toàn cầu. Việt Nam đã mở và hội nhập toàn diện với thế giới. Sự phát triển của xã hội và những đòi hỏi dân chủ diễn ra khắp nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Nhu cầu dân chủ hóa xã hội, tôn trọng các quyền con người về chính trị là khát khao, mong muốn của cả dân tộc Việt Nam. Việc duy trì chế độ chính trị độc đảng là không còn phù hợp với mong muốn của nhân dân. Do đó việc hủy bỏ những điều luật không còn phù hợp trong Bộ luật hình sự (Điều 79, 87, 88, 89,91, 258) là bước đi đầu tiên của tiến trình dân chủ hóa đất nước.
11) Tự do thông tin hay tự do ngôn luận có lợi và hại như thế nào đối với xã hội và sự phát triển của đất nước?
Tự do thông tin, tự do ngôn luận hay tự do bày tỏ về các vấn đề chính trị xã hội là huyết mạnh của bất cứ nền dân chủ nào. Patrick Wilson, người Canada, sáng lập ra chương trình truyền hình Đấu tranh cho Dân chủ nhận xét: “Dân chủ là trao đổi thông tin: mọi người trao đổi với người khác về các vấn đề chung của họ và gây dựng nên một số phận chung. Trước khi con người tự quản được mình thì họ cần được tự do để thể hiện mình đã.”
Các chính phủ dân chủ thường không kiểm soát các bài phát biểu bằng lời hay bằng văn bản. Do vậy các công dân sống trong các Nhà nước dân chủ được tự do trao đổi về các tư tưởng và quan điểm từ đó chân lý và sự thật sẽ được tìm thấy để chiến thắng sai lầm hay dối trá, đồng thời các quan điểm hay tư tưởng khác biệt sẽ được nhận biết giá trị rõ hơn và khi đó con đường dẫn tới tiến bộ, phát triển sẽ được mở ra.
Hệ quả của tự do thông tin, tự do ngôn luận là quyền của nhân dân được nhóm họp, họ được tự do tranh luận về mọi vấn đề của đất nước. Và từ đó họ sẽ đưa đòi hỏi thay đổi một cách ôn hòa chính phủ phải lắng nghe những mối bất bình của họ. Các cuộc tranh luận tự do và cởi mở sẽ dẫn tới việc xem xét lựa chọn tối ưu và chắc chắn sẽ tránh được những sai lầm nghiêm trọng. Từ năm 1859, một nhà triết học nổi tiếng người Anh John Stuart Mill đã chỉ ra trong bài viết “Bàn về tự do” rằng nhân dân sẽ bị tổn hại khi tự do ngôn luận bị đàn áp.
“Nếu dư luận là đúng, họ bị tước đoạt mất cơ hội chuyển sự nhầm lẫn thành sự thật, nếu như dư luận là sai, họ mất đi cơ hội để có được nhận thức rõ ràng hơn và mất cơ hội nhìn nhận sự thật sâu sắc hơn khi được đối chiếu với sai lầm.”
Rõ ràng, tự do thông tin, tự do ngôn luận, tự do do bày tỏ hoàn toàn có lợi đối với xã hội và sự phát triển của đất nước. Các đường lối, chính sách của chính phủ về kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng không phải lúc nào cũng đúng đắn và chính xác. Do vậy chúng cần được người dân xem xét và tranh luận, khi đa số người dân thấy không phù hợp, họ cần được tự do bày tỏ sự phản đối ôn hòa của mình.
Từ đó chính phủ biết đến để xem lại xét lại và sửa chữa trước khi quá muộn. Điều này giúp cho chính phủ có thêm kinh nghiệm trong việc ban hành các chính sách. Và người dân cũng được tham gia tích cực và hiệu quả trong việc quản lý, xây dựng đất nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét