Thứ Hai, 19 tháng 12, 2011

Đơn khiếu nại chị Bùi Hằng


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
________________________
Hà Nội, ngày 18  tháng 12 năm 2011

ĐƠN KHIẾU NẠI
Về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà
 Bùi Thị Minh Hằng

       Kính gửi: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo

I. Người khiếu nại:
Bà Bùi Thị Minh Hằng, sinh ngày 20/07/1964, hộ khẩu thường trú tại số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Hiện bà Bùi Thị Minh Hằng đang bị cưỡng bức giáo dục tại Cơ sở giáo dục Thanh Hà, địa chỉ xã Gia Khánh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc thuộc quản lý của Tổng cục Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp – Bộ Công an.
Liên hệ gia đình: Bùi Trung Nhân, con trai bà Bùi Thị Minh Hằng trú tại số 90 C5 Lê Hồng Phong, phường 7, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, điện thoại 0165.5535.606.
Căn cứ điểm a, khoản 1, điều 17 của Luật khiếu nại, tố cáo, quy định:
“Người khiếu nại có các quyền:… vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được uỷ quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác để khiếu nại;”
Người được ủy quyền khiếu nại: Luật sư Hà Huy Sơn, Văn phòng luật sư Trần Vũ Hải địa chỉ 81 phố Chùa Láng, quận Đống Đa, Hà Nội thuộc Đoàn luật sư Hà Nội theo Giấy ủy quyền ngày 15/12/2011 – kèm theo.
II.  Người bị khiếu nại:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo vì đã ban hành Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 do Phó Chủ tịch Vũ Hồng Khanh ký thay về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà Bùi Thị Minh Hằng. (QĐ 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 – kèm theo)
III. Nội dung:
Khoảng trưa ngày 27/11/2011, nghe tin ở Hà Nội công an bắt một số người tại khu vực Bờ Hồ Hoàn Kiếm vì cho rằng họ có hành vi tự phát biểu thị thái độ ủng hộ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội đưa vào chương trình làm việc khóa 13 của Quốc hội ban hành Luật biểu tình, bà Bùi Thị Minh Hằng cùng 03 người khác đã đứng giơ trên tay mảnh giấy ghi “Phản đối đàn áp người ủng hộ Quốc hội ra luật biểu tình” ở cạnh khu vực Nhà thờ Đức Bà. Sau đó bà Hằng bị bắt đưa vào Công an phường Bến Nghé, quận I, Tp.Hồ Chí Minh. Ngày 28/11/2011 bà Hằng được đưa đến Cơ sở giáo dục Thanh Hà, tỉnh Vĩnh Phúc và được giao Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
Việc Chủ tịch ban hành Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 nêu trên đã vi phạm các quy định của pháp luật như sau:
Thứ nhất:
Căn cứ điều 87 “Nội dung quyết định đưa vào cơ sở giáo dục” của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, quy định:
Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn và nơi thi hành quyết định; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.”
Thế nhưng, Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 không ghi “điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng;”.
Thứ hai:
Căn cứ điều 87 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì Quyết định phải ghi rõ “nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục” nhưng Quyết định 5225/QĐ-UBND lại ghi:
“Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú nhất định”
Để xác định nơi cư trú của bà Bùi Thị Minh Hằng thì phải căn cứ vào quy định của Luật cư trú năm 2006.
Khoản 1, điều 12 của Luật cư trú năm 2006, quy định:
Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.”
Và khoản 1, điều 24 của Luật cư trú năm 2006, quy định:
“Sổ hộ khẩu được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký thường trú và có giá trị xác định nơi thường trú của công dân.”
Bà Bùi Thị Minh Hằng có chỗ ở hợp pháp và thường xuyên sinh sống được Giấy chứng nhận QSDĐ và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BB558764 do UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp 07/09/1999 là ở số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (Bìa GCN – kèm theo).
Mặt khác, Sổ hộ khẩu do Công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp và CMND số 273278857 do công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp ngày 25/11/2004 và ngay tại điều 1 của Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội đều xác định nơi thường trú của bà Bùi Thị Minh Hằng là số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Như vậy nơi cư trú của bà Bùi Thị Minh Hằng là 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Như vậy, với các bằng chứng và các căn cứ pháp luật nêu trên cho thấy việc Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội cho rằng bà Hằng “Không có nơi cư trú nhất định” là không đúng.
Thứ ba:
Căn cứ khoản 1, điều 3 của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27/06/2003 và Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 sửa đổi, bổ sung, quy định:
“Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục
Người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong thời hạn 12 tháng), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định:”
Bà Bùi Thị Minh Hằng không phải là người không có nơi cư trú nhất định vì vậy bà Hằng không phải là đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục như quy định tại các Nghị định nêu trên và điều 25 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Thứ tư:
Căn cứ khoản 2, điều 86 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, quy định:
“Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho người bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ quan Công an cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.”
Quyết định 5225/QĐ-UBND ký ngày 08/11/2011 thế nhưng đến ngày 28/11/2011 (tức 20 ngày sau) sau khi bị bắt bà Bùi Thị Minh Hằng mới được nhận, trong khi bà Hằng có địa chỉ nhà ở tại số 106 Lê Hồng Phong, Tp. Vũng Tàu nơi bà Hằng ở cùng với con trai là Bùi Trung Nhân 18 tuổi.
Kết luận: Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà Bùi Thị Minh Hằng có nơi cư trú tại số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu là hoàn toàn trái pháp luật.
Căn cứ điều 71, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định:
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.”
Căn cứ khoản 1, 2, 4, 5 điều 9 của Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm 1966, Việt Nam tham gia năm 1982, quy định:
“Điều 9:  
1. Ai cũng có quyền tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc đoán. Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và theo những thủ tục luật định.
2. Khi bị bắt giữ, bị cáo phải được tức thì thông báo về lý do bắt giữ, và phải được thông báo không chậm trễ về tội trạng bị cáo buộc.
4. Những người bị bắt giữ hay giam cầm đều có quyền yêu cầu toà án thụ lý không chậm trễ về tính hợp pháp của sự giam giữ, và phải được phóng thích nếu sự giam giữ được xét là bất hợp pháp.
5. Các nạn nhân trong những vụ bắt giữ hay giam cầm bất hợp pháp có quyền khiếu tố đòi bồi thường thiệt hại.”

YÊU CẦU:

1- Ông Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội hủy ngay Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà Bùi Thị Minh Hằng;
2-  Trả tự do ngay và bồi thường danh dự cùng các thiệt hại về tinh thần, vật chất cho bà Bùi Thị Minh Hằng do việc ban hành Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch gây ra.
Hy vọng Ông Chủ tịch thực hiện đúng quy định của pháp luật và xứng danh là Chủ tịch của Thành phố vì hòa bình và Thăng Long 1000 năm văn hiến.
Trân trọng,
Nơi nhận:                                                                               Người làm đơn 
-   Như trên;
-   Bà Bùi Thị Minh Hằng;
-   Ông Bùi Trung Nhân;
-   Lưu VP, 04b.
                                                                                           Luật sư Hà Huy Sơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét